Người Ai Cập cổ đại - Chương 4: Xây Dựng Đế Chế: Những Vinh Quang của Tân Vương quốc - Giáo sư Còi - Kênh Học Thuật Chuyên Sâu

Breaking

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2021

Người Ai Cập cổ đại - Chương 4: Xây Dựng Đế Chế: Những Vinh Quang của Tân Vương quốc

 


Chương 4
Xây Dựng Đế Chế: Những Vinh Quang của Tân Vương quốc


 Trong Chương Này


⮚ Gặp gỡ các nhà xây dựng đế chế


⮚ Phòng thủ biên cương


⮚ Nhìn lại những nghi thức tôn giáo Ai Cập


⮚ Lấp kín những khe nứt


Việc đẩy lùi người Hyksos (xem Chương 3) chứng kiến sự cáo chung của thời kỳ trung gian thứ hai và khởi đầu thời kỳ Tân Vương quốc. Thời kỳ này (1570-1070 BC) là một trong những thời kỳ nổi tiếng nhất, với các triều đại 18-19 và tất cả những vì vua quen thuộc, như Tutankamun, Akhenaten, và Ramses II.


Khởi đầu triều đại 18 chứng kiến sự ra đời của đội quân thường trực (xem Chương 3) cũng như sự thay đổi trong bang giao quốc tế. Ý thức hệ quân vương cũng vượt khỏi biên giới của Ai Cập. Điều này có nghĩa mỗi nhà vua mới đều nỗ lực chiếm cứ nhiều đất đai hơn vua cha, cho đến khi cuối cùng một vùng rộng lớn của Viễn Đông nằm dưới sự kiểm soát của Ai Cập, với các vua chư hầu nguyện trung thành với Ai Cập, được dựng lên trong những thị trấn ngoại quốc.


Tân Vương quốc là một thời điểm cách tân và xây dựng đế chế do một số các vì vua hùng mạnh nhất thực hiện. Chương này tập trung vào dân tộc và những nhân vật làm nên thời đại vẻ vang này.


Gặp Gỡ Napoleon của Ai Cập: Thutmosis III


Người xây dựng đế chế thực sự đầu tiên của Tân Vương quốc là Thutmosis III (1504-1450) của triều đại 18, chồng và con ghẻ của Hatshepsut (xem Chương 5).


Thutmosis III, con trai của Thutmosis II và người vợ thứ hai tên Isis, vẫn còn là một đứa trẻ khi lên ngôi sau khi vua cha băng hà. Khi lên ngôi, ông kết hôn với vợ góa của Thutmosis II, cũng là mẹ ghẻ và dì ông, Hatshepsut. Trong hơn 20 năm, Hapshepsut và Thutmosis III cai trị một cách chính thức như các đồng nhiếp chính, mặc dù phần lớn thời kỳ này chính Hatshepsut mới cai trị Ai Cập như một pha-ra-ông thực thụ, đẩy chàng trai trẻ Thutmosis III sang một bên.


Thutmosis III trải qua thời niên thiếu và thành niên rèn luyện trong trại lính cho đến khi Hatshepsut mất sau khi cai trị được 22 năm. Lúc này ông tiếp nhận ngai vàng như một người đã trưởng thành và là nhà chỉ huy quân đội và tiếp tục cai trị Ai Cập một mình trong hơn 20 năm nữa. Hình 4-1 cho thấy ông đang ở đỉnh vinh quang.



Các nhà Ai Cập học thường ví Thutmosis III như là Napoleon của Ai Cập vì ông trải qua thời trưởng thành trong chinh chiến và xâm chiếm đất đai về cho Ai Cập. Ông để lại một số ghi chép quân sự rất tỉ mỉ trong Phòng Niên Giám tại đền Karnak, kể lại những kỳ công ở Syria đã làm nên tiếng tăm ông.


Trận đánh ở Megiddo


Cuộc chiến lừng lẫy nhất của Thutmosis III xảy ra tại Megiddo ở Syria, trong năm đầu trị vì một mình của ông (khoảng 1476 BC). Vua vùng Kadesh ở Syria từ từ thu phục một số thành phố Palestine cùng liên minh với ông mưu đồ tấn công qua biên giới của Ai Cập, vì ông ta không đủ sức đánh một mình. Đội quân này đánh chiếm thị trấn quan trọng và kiên cố của Syria là Megiddo (ngày này là Israel), một vị trí chiến lược cho việc buôn bán và phòng thủ.


Megiddo là địa điểm đã từng xảy ra nhiều cuộc chiến trong thời cổ. Chữ ‘Armageddon’ trong kinh thánh thật ra có nghĩa là ‘núi vùng Megiddo’ trong tiếng Hebrew (thường sử dụng để chỉ một trận quyết chiến giữa thiện và ác) và ám chỉ một trận đánh đặc biệt ở đây.


Thutmosis III và quân đoàn Ai Cập xuất binh từ vùng Châu thổ, qua Sinai, và đến Megiddo. Họ vây hảm một số cứ điểm dọc theo đường tiến quân để bảo vệ và kiểm soát tuyến đường liên lạc (và có thể bảo toàn lực lượng phòng khi rút quân về Ai Cập).


Có ba đường đi dẫn đến Megiddo, và Thutmosis phải quyết định chọn một. Hai đường dài hơn rất khó phòng thủ, trong khi con đường ngắn hơn và trực tiếp hơn có nguy cơ bị kẻ thù đột kích vì nó hẹp buộc đoàn quân phải đi hàng một.


Thutmosis được khuyên nên đi con đường dài hơn, nhưng ông quyết định chọn con đường ngắn nhất. May cho ông ta, quân Ai Cập vượt qua mà không gặp khó khăn gì và chẳng bao lâu đã áp sát thị trấn được phòng thủ vững chắc. Ông ra lệnh hạ trại đợi hậu quân đến đầy đủ.


Thời điểm tấn công


Sau khi quân đoàn Ai Cập bắt đầu tiến về Megiddo, quân địch đã bố trí việc phòng thủ kiên cố. Sáng hôm sau, quân đoàn Ai Cập diễu binh để biểu dương lực lượng, nhằm làm kẻ thù mất tinh thần.


Thutmosis III dẫn đầu mũi tấn công trên chiếc chiến mã xa bằng vàng và bạc, với một phần ba  quân số. Các ghi chép chiến trường viết rằng quân đội Ai Cập bị áp đảo về quân số vì quân Syria có hơn 330 ông vua và ‘Hàng triệu người, và hàng trăm ngàn các tù trưởng của mọi vùng đất, uy nghi trên chiến mã xa.’


Mặc dù bị áp đảo về quân số, Thutmosis III rất dũng cảm:


 Nhà vua dần đầu đoàn quân, lao đi như ngọn lửa, dơ cao thanh gươm. Người xốc tới, không ai sánh đặng, tàn sát kẻ thù mọi rợ, đập đánh bọn Retenu (dân Á châu), bắt sống các ông hoàng của họ, tịch thu những chiến mã xa của chúng cẩn vàng ròng.


Lực lượng Ai Cập quá mạnh đối với đạo quân yếu ớt phòng thủ ngọn núi Megiddo. Đạo quân ở Megiddo nhanh chóng tan rã, bỏ lại hết vũ khí, xe ngựa, và tài sản. Quân Ai Cập đuổi theo bén gót, binh sĩ giữ cửa thành không dám mở cửa cho đoàn quân chạy về vì sợ quân Ai Cập thừa cơ xông vào thành. Quân lính trong thành phải lấy vải màn thắt nút thả xuống và kéo những người giàu có và có vai vế lên, đưa vào trong thành.


Cơ hội vuột mất


Sau khi quân Syria tháo chạy khỏi núi Megiddo, quân Ai Cập có một cơ hội tấn công ồ ạt trước khi bọn Syria có thời gian thu thập tàn quân và chuẩn bị phản công từ trong thành lũy. Tuy nhiên, thay vì tấn công ngay, các binh sĩ Ai Cập chóa mắt vì của cải mà bại binh Syria bỏ lại, nên quay sang tranh giành chiến lợi phẩm. Họ mất cơ hội trước người Syria, nhưng bù lại túi đầy ắp của cải.


Thutmosis kiểm soát lại tình hình __ có vẻ như quá trễ __ và tổ chức đắp lũy đào hào quanh Megiddo chuẩn bị một cuộc bao vây lâu dài. Đối với Ai Cập, chiếm lấy thị trấn là việc quan trọng để biểu dương sức mạnh. Nhờ đó họ có thể phòng thủ làm khiếp sợ những bộ tộc khác nhau từ những thị trấn chung quanh lúc nào cũng hăm he gây khó dễ cho người Ai Cập và làm suy yếu sự kiểm soát đế quốc của họ. Cuộc bao vây kéo dài bảy tháng trước khi Megiddo cuối cùng rơi vào tay người Ai Cập.


Thay đổi Tôn Giáo: Akhenaten


Một vị vua triều đại 18 khác cũng lừng lẫy tiếng tăm trong hàng ngàn năm là ông vua ngoại giáo, Akhenaten (1350-1333 BC). Ông bị tai tiếng vì đã thay đổi tôn giáo của cổ Ai Cập từ việc thờ phượng hàng trăm thần linh sang chỉ thờ một vị thần duy nhất __ thần Aten hay đĩa mặt trời. Hình 4-2 là tượng bán thân của Akhenaten.


Mặc dù Aten được nâng lên vị trí độc tôn, chỉ có Akhnaten và hoàng gia mới có thể thờ phượng thần mặt trời. Akhenaten cũng tự mình nâng cấp thành một vị thần đầy đủ lông cánh, thiêng liêng hơn bất cứ vị vua nào khác __ và mọi người khác đều phải tôn thờ Akhenaten! Vậy là trong hệ thống Akhenaten, không có độc thần mà là nhị thần.



Gặp gỡ gia đình


Akhenaten là con trai nhỏ nhất của Amenhotep III và Hoàng hậu Tiye. Ông sinh ra dưới tên Amenhotep và chỉ sau này mới đổi tên là Akhenaten khi ông càng ngày càng sùng bái vị thần. Mẹ của Akhenaten, Tiye, thuộc gia đình quí tộc, nhưng không thuộc hoàng gia. Một số hình ảnh cho thấy bà có vẻ là một người đàn bà hay khống chế và làm người ta khiếp sợ. Bà lúc nào cũng thấy đứng bên cạnh chồng trong một vị trí bổ sung hơn là thấp kém và có khi được miêu tả một mình không có chồng bên cạnh, một ngoại lệ chưa từng nghe nói đến trong lịch sử Ai Cập thời trước. 


Akhenaten có một anh trai, Thutmosis, nhưng chết trước khi lên ngôi và có ba chị em gái: Beketaten, Sitamun, và Isis. Hai người sau kết hôn với cha họ, Amenhotep III.


Kết hôn với một nhân vật bí ẩn


Akhenaten lấy vợ sớm, trước khi lên ngôi, và ông kết hôn với một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất cổ Ai Cập __ Nefertiti, một người trầm lặng và bí ẩn. không ai thực sự biết xuất thân của bà từ đâu, cha mẹ bà là ai, và thật ra bà là ai. Nhưng phần đông nhà Ai cập học đều tin rằng bà là con gái của Ay, anh của Hoàng hậu Tiye. Vợ của Ay làm vú nuôi cho Nefertiti, cho thấy bà không phải là mẹ ruột mà là mẹ ghẻ của Nefertiti.


Nefertiti và Akhenaten có sáu con gái, người đầu tiên sinh ra trước khi Akhenaten lên ngôi được một năm. Các cô gái thường được mô tả đứng cạnh vua và hoàng hậu (xem hình chạm khắc bên dưới). Tên của họ là


✔ Meritaten


✔ Meketaten


✔ Ankhesenepaten


✔ Neferneferuaten


✔ Neferneferure


✔ Setepenre


Mặc dù không có chứng cứ trực tiếp, có thể Tutankhamun cũng là con trai của Akhenaten và người vợ thứ hai Kiya. Một số học giả cũng tin rằng Smenkhkare, vị vua bí mật lên ngôi sau Akhenaten trong một thời gian ngắn, cũng là con trai của Akhenaten; người khác cho rằng ông ta là con của Amenhotep III, còn một số học giả khác lại tin rằng Amenkhkare và Nefertiti là cùng một người. Nếu các học giả tiếng tăm mà không còn nhứt trí thì chúng ta biết sao bây giờ?


Ca tụng thần mặt trời


Tiêu điểm chính trong thời trị vì của Akhenaten là cuộc cánh mạng tôn giáo của ông, xảy ra trong một thời gian rất ngắn. Akhenaten chỉ trị vì 17 năm, và cuộc cách mạng hoàn tất vào năm thứ 9 trong triều đại ông. Mặc dù cuộc cách mạng chỉ trải qua một thời gian ngắn, nhưng thời kỳ này được các nhà viết sử hiện đại viết nhiều nhất trong lịch sử cổ Ai Cậpập.


Lạ hơn nữa, có 12 năm Akhenaten chắc hẳn đồng cai trị với vua cha của mình Amenhotep III, vua cha cai trị từ Thebes và Akhenaten cai trị từ thành phố mới mở ở Amarna ngay  giữa Ai Cập.


Thần Aten là một nhân tố cốt lõi trong thời vua Akhenaten trị vì. Aten không phải là một vị thần mới: Ông ta luôn luôn là một phần của chu kỳ thái dương rộng lớn hơn và xuất hiện như hiện thân của ánh sáng toả ra từ đĩa mặt trời. Ánh sáng này được miêu tả trong hình chạm khắc trên đây, vẽ bằng những bàn tày tỏa ra từ đĩa mặt trời, mỗi tia sáng kết thúc với bàn tay nhỏ bé dâng biểu tượng ankh, biểu tượng của cuộc sống vĩnh hằng, cho gia đình nhà vua (xem hình chạm khắc ở trên). Toàn bộ hình ảnh nói lên vai trò của mặt trời là nuôi dưỡng cuộc sống. Tất cả điều Akhenaten làm là nâng vai trò này của mặt trời lên thành vai trò là thần mặt trời duy nhất.


Sự ưu ái thần Aten lên trên những vị thần khác bắt đầu vào thời trị vì của Amenhotep III như một phần trong chiến dịch nhằm giới hạn quyền lực của giới tu sĩ thờ thần Amun ở Karnak, mà vào thời điểm đó hầu như có quyền lực ngang với nhà vua. Tuy nhiên, Akhenaten đi xa hơn và bắt đầu thay thế tất cả những vị thần chính bằng thần Aten, mặc dù ông chỉ đóng cửa tất cả đền thờ khác vào năm trị vì thứ chín, khi đó ông dồn hết thu nhập cho các đền mới thờ thần Aten.


Vào năm 12, Akhenaten bắt đầu một chiến dịch thù hằn chống lại dòng tu Amun. Ông cho đục bỏ tất cả tên Amun ở mọi chỗ nó xuất hiện __ ngay cả trong tên của vua cha, Amenhotep. Việc này chưa từng có tiền lệ ở Ai Cập. Các ông vua thường xóa bỏ tên những vị vua khác mà mình không ưa vì lý do cá nhân, nhưng chưa từng có nhà vua xóa bỏ tên của thần linh. Hành động của Akhenaten chắc phải gây hoang mang cho nhiều người.


Gặp một kết cục bất hạnh


Mặc dù có nhiều kẻ thù, Akhenaten hình như chưa từng bị mưu sát. Tuy nhiên, việc kết thúc trị vì của ông mơ hồ và không được ghi chép lại, vì thế các sử gia chỉ có thể phỏng đoán qua những sự kiện thực sự xảy ra.


Một chuỗi những tai họa trong cuộc đời ông xảy ra trước khi ông chết và sự sụp đổ của thời đại Amarna:


✔ Năm trị vì 12 của Akhenaten, vua cha Amenhotep III mất.


✔ Năm trị vì 13, Nefertiti biến mất trong các văn tự chạm khắc, như vậy có thể bà cũng đã mất, mặc dù một số học giả cho rằng bà đã đổi tên và đồng cai trị với chồng.


✔ Năm trị vì 14, con gái Meketaten của Amenhotep qua đời khi sinh nở.


✔ Năm trị vì 14, mẹ của Akhenaten, Tiye, mất.


Một chuỗi chết chóc này thường được gán cho nguyên nhân một bệnh dịch được gọi là ‘cơn bệnh châu Á’ quét qua Amarna; dịch bệnh này có thể là dịch hạch. Bệnh dịch này được dân chúng xem là sự trừng phạt của những vị thần linh bị bạc đãi __ khiến người ta quay ra thờ cúng trở lại những vị thần truyền thống.


Akhenaten mất vào năm trị vì 17 khi vào thập niên 30. Ông không có con trai thừa kế mà ta biết, có lẽ chỉ trừ Smenkhkare, một nhân vật bí ẩn đồng trị vì bên cạnh Akhenaten trong ba năm. Một số người tin rằng Smenkhkare chính là Nefertiti, mặc dù chứng cứ chưa mấy thuyết phục. Sau đó Smenkhkare cai trị một mình trong một vài tháng rồi cũng mất, chắc cũng do dịch bệnh. (Bạn chắc không muốn là thành viên của gia đình ma ám này, phải không?)


Sau khi Smenkhkare chết, chỉ còn duy nhất một người thừa kế thích hợp, Tutankhamun lừng lẫy __ một thằng nhóc chỉ mới lên 7 hay 8.


Một Vì Vua Mới Lớn: Tutankhamun


Tutankhamun là cái tên gợi lên hình ảnh của vàng bạc và của cải, nhờ lăng mộ lộng lẫy của ông được phát hiện. Trước khi lăng mộ được phát hiện, ta biết rất ít về ông vua này __ mà nói thật, sau khi lăng mộ được khai quật, thế giới cũng không mở mắt được nhiều lắm.


Có nhiều lỗ hổng trong cuộc đời của Tutankhamun, và hầu hết những nghiên cứu đều tập trung vào kho báu trong lăng mộ ông. Nhiều bảo vật được chế tác để an táng và có thể không phản ánh gì cuộc đời của nhà vua. Tuy nhiên, những bí ẩn xoay quanh vị vua này vẫn tiếp tục gây tò mò kể từ khi lăng mộ được phát hiện năm 1922. Chắc chắn Tut sẽ tiếp tục hấp dẫn người ta thêm 100 năm nữa.


Giữ kín chuyện nhà


Các sử gia nghĩ rằng Tutankhamun ra đời trong khoảng từ năm trị vì 7 đến năm trị vì 9 của Akhenaten, có lẽ ở Amarna. Lúc đầu gọi là Tutankhaten (‘hình ảnh sống của thần Aten’), sau khi lên ngôi đổi thành Tutankhamun.


Các nhà Ai Cập học còn không thể nhất trí việc ai là cha mẹ của Tutankhamun. Có nhiều giả thuyết:


✔ Akhenaten và Kiya (vợ thứ)


✔ Akhenaten và Tadukhipa (công chúa xứ Mitan)


✔ Amehotep III và Tiye (như vậy Tutankamun là em của Akhenaten)


✔ Amenhotep III và Sitamun (em gái của Akhenaten)


Giả thuyết đầu ngày nay được nhiều nhà Ai Cập học ủng hộ. Khi mới lên ngôi, Tutankhamun kết hôn với Ankhesenepaten, sau đó đổi tên thành Ankhesenamun. Tùy thuộc ai là cha mẹ của Tutankhamun, Ankhesenamun hoặc là em một cha khác mẹ hoặc là cháu gái của ông. Họ chắc chắn thích quây quần với gia đình. Ankhesenamun lớn hơn Tutankhamun một vài tuổi, và có thể họ đã được nuôi dưỡng cùng nhau trong hoàng cung ở Amarna.


Buồn thay, dù họ còn trẻ và trị vì đến mười năm, Tutankhamun và Ankhesenamun không có con nào sống được. Chôn cùng với lăng mộ Tutankhamun trong một hộp gỗ trắng đơn giản là hai bào thai nữ, một vừa mới sinh và một chỉ sống một thời gian ngắn trước khi chết. Những bào thai này có thể là con cái của Tutankhamun, cho thấy cặp đôi trẻ này đã trải qua một thời khắc khó khăn nỗ lực kiếm một người kế vị ngai vàng.


Phục hồi tín ngưỡng


Nhiệm vụ chính trong thời trị vì của Tutankhamun là phục hồi tôn giáo Ai Cập __ nhất là để chỉnh đốn mọi sự thay đổi mà Akhenaten đã cổ xúy. Việc đầu tiên là ông bỏ kinh đô mới ở Armana và sử dụng Memphis và Thebes là các kinh thành của Ai Cập, như truyền thống từ xưa và được nhân dân mong đợi. Vì Tutankamun còn trẻ, có thể ông được nhiếp chính bởi các quan lại của mình: Horemheb (tướng và cánh tay phải của vua) và tể tướng, là cậu Ay của Tutankhamun.


Tại đền Karnak, Tutankhamun cho dựng Bia Ký Phục Dựng, tóm tắt một số kế hoạch để tái thiết việc thờ cúng và truyền thống của Ai Cập.


Nhà vua phục dựng mọi thứ đã bị tàn phá, để được đời sau tưởng nhớ mãi mãi. Ông đã khắc phục sự hỗn loạn trên mọi miền đất nước và đã dựng lại thần Maat (thần của trật tự) trở về chốn cũ. Ngài đã tuyên bố nói dối là một tội ác, và toàn xứ sở đã trở về như thời sáng thế.


Lúc ngài mới lên ngôi các đền thờ và tài sản của thần và nữ thần từ Elephantine cho đến tận vùng đầm lầy ở Hạ Ai Cập chỉ là đống đổ nát. Các điện thờ của thần linh đã sụp đổ, biến thành đống gạch vụn và cỏ dại mọc đầy . . . Các đền thờ của thần linh đã trở thành các đường mòn. Thế giới lâm vào cơn hổn độn và thần linh đã quay lưng lại mảnh đất này


. . . Nếu bạn cầu khấn thần xin một lời khuyên, thần chỉ im lặng, nếu ai van vái nữ thần, nữ thần cũng im lặng. Con tim chỉ còn thoi thóp trong lồng ngực vì mọi thứ trước đây từng có mặt, đã bị phá hủy.


 Tutankhamun cần tìm nhóm cộng sự thân tín làm việc trong các đền thờ và điện thờ mới xây dựng. Ông tuyển mộ các thanh niên và phụ nữ từ các gia đình quyền quí trung thành với vì vua già, Amenhotep III, bảo đảm họ sẽ vực dậy truyền thống của thời đại ông.


Cái chết


Trong nhiều năm, giả thuyết quanh cái chết của Tutankhamun đã tốn biết bao nhiêu giấy mực. Ông mất khi còn rất trẻ __ chỉ độ 18 hay 19 tuổi. Hình 4-3 cho thấy gương mặt nổi tiếng của Tutankhamun.


Trong nhiều năm, các sử gia nghĩ rằng Tutankhamun đã chết vì một cú đánh sau đầu, vì người ta tìm thấy trong hộp sọ của ông có một mảnh xương nhỏ rơi ra. Tuy nhiên, vào năm 2005, khi xác ướp của ông được chụp CT, cho thấy mảnh xương này xuất hiện sau khi ông chết, chắc hẳn do Howard Carter và nhóm khai quật của ông gây ra khi cố gỡ mặt nạ bằng vàng ra khỏi đầu ông. Chứng cứ chụp CT cũng cho thấy những vết nứt khác nhau và những chỗ xương gãy trên cơ thể của Tutankamun có thể đã xảy ra trước khi ông chết và chắc hẳn là nguyên nhân cái chết của ông. Một giả thuyết mới cho rằng ông chết vì bị tai nạn khi lái chiến mã xa.


Hình 4-3

Tái Thiết Đế Chế: Sety I


Dù nguyên nhấn cái chết của Tutankhamun là gì, việc ra đi của ông ta đúng là một cơn ác mộng thực sự cho Ai Cập. Ông không để lại người kế vị, vì thế người nối ngôi không được biết rõ.

✔ Ay (có thể là cậu của Tutankhamun) lên làm vua, cho dù viên tướng quân đội của Tutankhamun là Horemheb đang là cánh tay phải của nhà vua. Tuy vậy, Ay đã ngoài lục tuần khi lên kế vị ngai vàng, và ông chỉ trị vì bốn năm trước khi qua đời.

✔ Horemheb kế vị Ay và cai trị hơn 30 năm. Ông tiếp tục công việc phục hồi của Tutankhamun.

Hành động quan trọng nhất của Horemheb là chỉ định Pirameses, một vị tướng trong quân đội của ông là người kế nhiệm ông. Horemheb có thể được coi là người thành lập triều đại thứ 19 vì chính ông là người đã nhìn ra và đề bạt Pirameses (sau này khi lên ngôi lấy vương hiệu là Ramses I) trong số đám võ biền bất trị của ông.

Tutankhamun, Ay, và Horemheb bắt đầu tái thiết biên giới Ai Cập, nhưng công cuộc này cần được nối tiếp. Ramses I khi lên ngôi đã luống tuổi nên chỉ trị vì một thời gian ngắn (1293-1291 BC).


Khi Tutamkhamun mất, viên tể tướng già cả của ông, Ay, kế vị ngai vàng. Người vợ góa của Tatankhamun Ankhesenamun, lúc ấy vẫn còn là một phụ nữ trẻ tuổi, có lẽ chỉ 21 tuổi, và rõ ràng không muốn từ bỏ vị trí hoàng hậu của mình và quyền lực đi kèm. Bà không tha thiết lấy Ay, ứng viên tiềm năng duy nhất cho hôn nhân.

Hoàng hậu háo hức muốn kết hôn với một hoàng tử xứ Hittite, gởi sứ giả đến vua xứ Hittite mang theo một bức thư khác. Các ghi chép cho thấy sứ giả, Hani, đã nói dùm bà:

Tâu bệ hạ! Đây là nổi nhục quốc thể! Nếu hoàng đế thần có con trai nối dõi, thần làm gì lặn lội đến đây cầu xin một quân vương cho xứ sở thần Nibhururiya, vua thần, vừa mất mà không có được một con trai nối dõi. Hoàng hậu thần giờ đây gối chiếc. Thần dân chúng tôi mong có một hoàng tử của bệ hạ đến làm vua xứ Ai cập, và cho hoàng hậu chúng thần một tấm chồng! Hơn nữa, chúng thần chỉ đến đây cầu xin bệ hạ, mà không đi đến xứ nào khác! Thưa bệ hạ, hãy cho chúng thần một hoàng tử của người.

Nhiều học giả tin rằng Akhesenamun đã viết một bức thư cho vua xứ Hittite


Suppiluliumas, thỉnh cầu ông ta gởi một người con trai cho bà, để bà có thể kết hôn với y và phong y làm vua xứ Ai Cập. Trong một bức thư do Akhesenamun viết, bà nói rõ là bà không muốn ‘cưới một kẻ dưới’, ý bà ám chỉ cuộc hôn nhân tiềm năng với lão già Ay.

 Chồng tôi đã mất. Tôi không có con trai. Nhưng họ nói ngài thì có nhiều con trai. Nếu ngài gởi một người con trai của ngài đến đây, anh ta sẽ là chồng tôi. Không bao giờ tôi chịu lấy một kẻ dưới mình làm chồng . . . Tôi sợ.

Lời thỉnh cầu như thế từ một hoàng hậu Ai Cập là điều rất bất thường, và nhà vua xứ Hittite không tin rằng đó là lời thỉnh cầu chân thật. Tuy nhiên, sau đó ông ta bị thuyết phục bởi lời lẽ của sứ giả và cuối cùng gởi hoàng tử Zenmanza đến Ai Cập.

Rủi thay, hoàng tử bị mưu sát trước khi đến được biên giới Ai Cập __ có lẽ do lệnh của Ay, người không bao lâu sau đã cưới Ankhesenamun.

Vua xứ Hittite dĩ nhiên đâm nghi và phái một sứ thần đến Ai Cập để tìm hiểu tình hình chính trị. Sứ thần trở về và báo cáo lên vua xứ Hittite tình hình đúng như hoàng hậu đã giải bày.

Quyết chiến ở Kadesh, Phần I


Trong thời gian trị vì của con trai Sety của Ramses I (1291-1278 BC) xảy ra một số rối ren chính trị, kéo dài suốt thời trị vì của Ramses II và Ramses III.

Khi vừa lên ngôi, Sety I cho mở một chuỗi chiến dịch nhằm tái thiết biên giới của đế quốc Ai Cập đã vỡ vụn, đã bị bỏ phế trong thời cai trị của Akhenaten và Smenkhkare. Trong năm đầu tiên nắm quyền, Sety mở một chiến dịch băng qua Syria tấn công kẻ thù Shasu theo lời khuyên của các quân sư.

Trong cuộc hành quân đến Palestine, các tộc trưởng đột kích Sety nhưng may thay quân đội Ai Cập đẩy lui dễ dàng. Những trận đột kích này chỉ có tính quấy rối hơn là đe dọa nhà vua, nhưng chúng cũng cần được dẹp tan để bảo vệ an toàn con đường giao thương mà Ai Cập đang cần đến.

Năm sau, Sety hành quân xa hơn về phương bắc đến Kadesh, một thị trấn thành lũy ở Syria bao quanh bởi hai vòng hào dẫn nước từ sông Orontes, do người Hittite kiểm soát. Nhưng lúc ấy người Hittite đang đóng quân tại biên giới Syria, buông lỏng Kadesh. Quân Ai Cập chiếm thị trấn không gặp nhiều khó khăn, và Sety tuyên bố kẻ thù ‘thây chất thành gò’.

Dù chiến thắng, Sety không đủ tiềm năng quân sự để gây áp lực với người Hittite nhằm chiếm thế thượng phong ở Syria. Người Ai Cập chỉ giữ Kadesh một thời gian ngắn rồi rút quân về, trả lại đất đai cho người Hittite mà không có một động thái quân sự nào nữa.

Sau khi Sety trở về Ai Cập, người Hittite dần dần mở rộng vùng đất kiểm soát, tiến sát gần hơn đến Ai Cập.

Một xong . . . còn bao nhiêu người nữa?

Sau khi giải quyết bài toán ở Kadesh, Sety I không ngủ yên trên chiến thắng. Các ghi chép chiến trường tại đền Karnak cho thấy sau đó ông khuất phục người Lybia lăm le vượt qua biên giới vùng Châu thổ và đập tan cuộc nổi dậy của người Nubia chống lại sự đô hộ của người Ai Cập.

Chữ Lybia người Ai Cập sử dụng để chỉ những bộ lạc Bedouin của Tây Sa Mạc hơn là dân cư của Lybia ngày nay.

Sety và đạo quân của ông đánh đuổi người Lybia xâm lược, và tranh chạm khắc ở Karnak cho thấy Sety chém tộc trưởng Lybia bằng một thanh mã tấu. Đó là cách bảo đảm hoàn hảo y sẽ không bao giờ trở lại. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, người Lybia vẫn quay lại và trở thành cái gai trong mắt của Ramses III.

Hình chạm khắc Sety ở Karnak cho thấy những thị trấn thành lũy của Syria thất thủ, và kẻ thù bôn tẩu đến các thị trấn khác hoặc đến những chỗ cao hơn để thoát khỏi sự truy bức của quân đoàn Ai Cập. Sety đương nhiên là dẫn đầu đại quân, và trong một cảnh ở Karnak, ông cặp cổ các tù trưởng bị bắt làm tù binh, mỗi tù trưởng một tay, cho thấy sự can trường của ông trên chiến trường.

Chiến Đấu : Ramses II

Người kế vị Sety I là con trai ông Ramses II (1279-1212 BC). Ramses II có nhiều tên và chức vị được người đời sau phong tặng qua nhiều thế kỷ, trong đó có

✔ ‘Sese’ do các bạn bè và bầy tôi trung thành gọi.

✔ ‘Ramses Vĩ Đại’ do các nhà khám phá của thế kỷ 18, 19 gọi.

Trở thành hoàng tộc


Ramses II là con của Sety I và Muttuya, ra đời 1304 BC. Ramses II không mang dòng máu hoàng tộc vì ông nội ông, Ramses I, là do Horemheb chọn lên làm vua. Ramses có ít nhất hai em gái, Tia và Hunetmire, và một em trai mà tên tuổi đã bị thất lạc.

Trong những năm sau, Ramses cưới ít nhất một trong hai người em gái làm vợ, Hunetmire. Vì Hunetmire và Ramses không thuộc hoàng tộc khi ra đời, bổng nhiên việc họ lấy nhau chỉ vì vị thế gia đình của họ thay đổi là điều kỳ lạ. May thay cho Hunetmire, bà không có con với Ramses; cuộc hôn nhân của họ có thể chỉ là một cuôc hôn nhân vì thuận lợi hơn là một cuộc hôn nhân đúng nghĩa.

Hôn nhân và gia đình (và nhiều gia đình hơn)


Trong những năm trị vì về sau, Sety đã phong cho Ramses quyền đồng nhiếp chính và để đánh dấu sự kiện này ông lập cho Ramses một hậu cung của riêng mình gồm toàn những phụ nữ xinh đẹp thuộc hoàng tộc, những bông hoa đẹp nhất của cung điện; theo tôi nghĩ đó là một món quà tuy hấp dẫn nhưng cũng đầy cám dỗ đối với một chàng trai còn độ tuổi thiếu niên.

Ramses duy trì hậu cung này trong suốt 67 năm trị vì, và không nghi ngờ gì hẳn ông lấy làm mãn nguyện. Nhưng hai bà vợ mà ông ưng ý nhất là Nefertari, người ông cưới trước khi lên ngôi, và Isetnofret, người ông cưới trong những năm đầu trị vì.

Mặc dù Nefertari và Isetnofret là những người vợ ưng ý, hậu cung của ông nổi tiếng vì chứa hơn 300 bà, sinh cho ông hơn 150 con trai và 70 con gái. Danh sách các con cái của Ramses được ghi chép ở Karmak theo thứ tự ra đời __ mặc dù con số này có thể được phóng đại để cho thấy ông mắn con ra sao.

Thực tế, Ramses II có tối đa 46 con trai và 55 con gái. Vâng, con số này thấp hơn con số ghi chép chính thức, nhưng như vậy cũng là quá nhiều rồi! Ramses và Nefertari có nhiều con, ít nhất mười đứa đã được ghi nhận, nhưng buồn thay tất cả đều chết trước Ramses. Các con của ông với Nefertari là:

✔ Amenhirwenemef (con trưởng) ở trong quân đội và giữ chức tổng tư lệnh.

✔ Prehirmenemef (con trai thứ ba) là cựu binh thanh thiếu niên của mặt trận

Kadesh lần hai và được tưởng thưởng tước vị ‘đệ nhất chiến mã binh của nhà

vua’ và ‘chiến binh đệ nhất hào kiệt’.

✔ Meriamun (con trai thứ 16).

✔ Meritamun (con gái thứ hai) là thứ phi của Ramses vào năm 24 và hành xử như người đại diện cho mẹ đang lâm bệnh.

✔ Baketmut (con gái thứ ba) được tin là chết trẻ, mặc dù lăng mộ của bà chưa

được phát hiện.

✔ Nefertari II (con gái thứ tư) hiện diện trên mặt tiền của đền thờ Abu Simbel.

✔ Nebettawi (con gái thứ năm) là thứ phi thay thế Meritamun sau khi bà này mất. Bà được an táng trong lô QV60, sau đó được sử dụng là nhà nguyện trong thời Cơ đốc giáo.

✔ Henoutawi (con gái thứ bảy) được miêu tả trong đền thờ Nefertari ở Abu Simbel, cho thấy bà là con gái của Nefertari, mặc dù bà mất trước khi đền thờ được thờ cúng.

Isetnofret, vợ thứ hai của Ramses, có ít nhất sáu người con:

✔ Ramses (con trai thứ hai) là một vị tướng trong quân đội và được phong thái tử sau cái chết của ông anh cùng cha khác mẹ Amenhirkhepshef.

✔ Bintanath (trưởng nữ) kết hôn với cha mình.

✔ Khaemwaset (con trai thứ tư) được phong thái tử khi anh mình Ramses đã chết. Khaemwaset là người con của Ramses II được dẫn chứng nhiều nhất. Lúc lên 5, 6 ông đi cùng vua cha và người anh cùng cha khác mẹ Amenhirwenemef chinh chiến trong chiến dịch ở Nubia. Khaemwaset sau đó trở thành trưởng tế của Ptah, một vị thần trong các đền thờ an táng.

✔ Merenptah (con trai thứ 13) kế vị Ramses II lên nối ngôi. Trong 12 năm trị vì cuối cùng, Merenptah cai trị Ai Cập như một đồng nhiếp chính và sau đó lên ngôi sau khi vua cha qua đời.

✔ Isetnofret II cưới anh trai Merenptah của mình.

Các người con khác của Ramses cũng được ghi chép, mặc dù mẹ của họ không được biết; chắc hẳn họ là con của những vợ thứ hoặc thứ phi.

Ngai vàng sau đó về tay Merenptah, con trai tứ 13 của Ramses do Isetnofret sinh hạ.

Theo bước chân vua cha: Kadesh Phần II


Ramses II có tiếng tăm vì có nhiều thành tích, nhưng đặc biệt ông được tưởng nhớ nhờ trận đánh ngoạn mục ở Kadesh chống lại bọn Hittite trong năm trị vì thứ năm. Mặc dù trước đây Sety đã đánh thắng tại Kadesh một lần, nhưng lực lượng quân sự của Ai Cập không đủ mạnh khiến người Hittite trở lại khuấy nhiễu vùng biên giới Ai Cập. Ramses II cần ngăn chận một cách dứt khoát trước khi người Hittite tiến xa hơn. Lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, Ai Cập là người ra đòn tấn công trong một cuộc chiến.

Vua Hittite đã tiên liệu cuộc tấn công nên tập hợp một đạo quân hùng mạnh bằng cách liên minh với 16 tỉnh lỵ lân cận, gồm tất cả:

✔ 2,500 chiến mã xa, mỗi xe có ba người

✔ Hai quân đoàn kỵ binh tổng cộng lên đến 18,000 đến 19,000 người

Quân số Ai Cập chỉ có 20,000 thua xa quân số kẻ thù là 26,000. Có lúc, các ghi chép cho biết quân số Ai Cập chỉ bằng một phần ba quân số của người Hittite.

Cả hai bên đối địch đều dùng nhiều loại vũ khí giống nhau, nhưng chiến thuật tấn công thì khác nhau:

✔ Người Hittite sử dụng vũ khí bằng sắt cứng trong khi người Ai Cập chủ yếu dùng vũ khí bằng đồng.

✔ Chiến mã xa Ai Cập chở theo hai người (một người điều khiển và một người chiến đấu), trong khi chiến mã xa Hittite chở theo ba người (một người lái, một người ném giáo hay cung thủ, và một người mang khiên che chắn hai người kia). Trong khi chiến mã xa Ai Cập nhẹ hơn và linh hoạt hơn, thì chiến mã xa Hittite cho phép họ chở theo nhiều quân số hơn.

✔ Quân đội Ai Cập cũng sử dụng bộ binh chạy theo để bao vây chiến mã xa địch khi họ  xông vào trung tâm quân địch giữa làn mưa tên Ai Cập. Sau đó bộ binh tấn công từ mặt đất trong khi kẻ thù vừa hoàn hồn sau trận mưa tên tới tấp.

 

Trận chiến


Quân đoàn của Ramses II tiến đến Levant (ngày nay là Israel, Jordan, Lebanon, và tây Syria) và cứ điểm Kadesh, qua dảy Gaza, với bốn sư đoàn lấy tên các thần Ptah, Ra, Seth, và Amun (Ramses II chỉ huy sư đoàn Amun).

Quân đoàn Ai Cập lội qua sông Orontes cách Kadesh 20 km về phía thượng lưu, phong tỏa đường phía bắc trước khi tiến vào một khu rừng gần đó. Quân đoàn dàn trận trên một khu vực rộng lớn, bốn sư đoàn tách xa nhau. Các thám báo Ai Cập sau đó bắt được hai tên Hittite khai báo một số mật tin:

 Rồi hai tên Shosu của bộ lạc Shosu tâu với nhà vua rằng, “Những người anh em của thần là tù trưởng vốn có tư thù với Khatti [Thủ lĩnh Hittite] đã phái chúng thần đến để thưa với bệ hạ là chúng tôi muốn sẵn sàng bỏ hàng ngũ của Khatti về làm tôi tớ cho bệ hạ.’ Nhà vua hỏi họ, ‘người anh em của nhà ngươi hiện giờ ở đâu?’ và họ trả lời đức vua, ‘Họ hiện

đang ở cùng với Thủ lĩnh Khatti ở vùng Khaleb phía bắc Tunip, hắn sợ bệ hạ sẽ tiến về hướng nam khi hắn nghe tin bệ hạ đã tiến về hướng bắc.’ Nhưng cả hai tên Shosu đều báo với đức vua những điều sai sự thật.

Ramses tin rằng người Hittite đóng quân xa về hướng bắc hơn ông kỳ vọng. Quân Ai Cập tiếp tục tiến về hướng bắc đến thành phố, với sư đoàn Amun hoàn toàn tin chắc sẽ hạ thành không mấy khó khăn, nên tiến đến mục tiêu trước. Khi sư đoàn Amun đến gần thành phố, thêm hai thám báo của địch bị bắt và họ khai là thật ra người Hittite hiện giờ ở ngay hướng bắc của Kadesh và chuẩn bị công kích.

Ramses gởi một tin báo khẩn cấp đến sư đoàn Ra ngay sau lưng ông, cách xa 8 km. Quân Hittite phái 2,500 chiến mã xa đến phía nam doanh trại Ai Cập, bên dưới những tán lá che giấu, rồi thình lình tấn công họ từ phía sau. Nhưng thay vì đột kích quân Ai Cập một cách bất ngờ, quân Hittite đến đối mặt với sư đoàn Ra, đang chầm chậm tiến gần mục tiêu từ phía nam. Cả hai bên đều rất bất ngờ, và khi các chiến mã xa Hittite tháo chạy qua sông, làm sông tắt nghẽn, và những quân Hittite phía sau không có nơi để rút trừ phải quay ra đối đầu với quân Ai Cập.

Quân Hittite xông thẳng qua sư đoàn Ra, binh lính Ai Cập tháo chạy (một số trở vào rừng, một số chạy lên đồi, và một số về hướng sư đoàn Amun). Cả hai sư đoàn Ra và quân Hittite đều nhắm thẳng vào sư đoàn Amun cùng một lúc. Sư đoàn Amun chưa sẵn sàng ứng phó chắc hẳn vì quá bất ngờ. Giống như sư đoàn Ra, Amun bắt đầu phân tán và tháo chạy khi quân Hittite xông thẳng qua đội quân phòng vệ thưa thớt của doanh trại tạm thời của quân Ai Cập.

Ramses hình như là người duy nhất còn bình tĩnh trong suốt cuộc chiến. Sau khi nhanh nhẩu khấn cầu thần Amun, ông tập hợp các chiến mã xa và bộ binh gần nhất và tổ chức phản công cuộc đột kích của quân Hittite. Các văn bản cho biết Ramses một mình chiến  đấu với toàn quân Hittite, một sự kiện hình như là không chắc chắn lắm __ nhưng thôi, vua Ai Cập là một vị thần mà.

Muộn còn hơn không


May mắn cho Ramses, sư đoàn thứ ba của Ai Cập, đang hành quân dọc theo bờ biển, đến vừa kịp lúc. Mặc dù vẫn còn bị áp đảo về mặt quân số, nhưng quân Ai Cập tìm cách đẩy lùi bọn Hittite. (Tuy nhiên, trong thực tế, người Hittite chỉ sử dụng một phần nhỏ trong quân số của họ và vì một lý do nào đó không chịu triển khai đội quân còn lại. Nếu không thì trận đánh này chắc hẳn đã kết liễu đời của Ramses Đại Đế.

Khi người Hittite biết chắc là tình thế đã bất lợi cho họ, họ tháo chạy vào trong thành lũy Kadesh. Người Ai Cập thu gom những binh sĩ bị thương, cắt bàn tay những binh lính Hittite đã tử trận để làm sổ sách chiến trường, và rút quân về tuyên bố mình đã thắng trận vẻ vang!

Đàm phán hòa bình


Mười sáu năm sau trận chiến Kadesh thứ hai, người Ai Cập và Hittite cuối cùng chấm dứt hận thù. Một thỏa hiệp hòa bình được soạn thảo, và đây là tài liệu hoàn chỉnh duy nhất thuộc loại này được phát hiện ở Ai Cập:

Sẽ không bao giờ còn hận thù giữa họ: Thủ Lĩnh Vĩ Đại của Kheta [Hittite] sẽ không bao giờ xâm nhập đất đai Ai Cập, không chiếm đoạt bất cứ thứ gì từ đó. Ramses Meriamun [con cưng của thần Amun] nhà cai trị Ai Cập sẽ không bao giờ vượt qua đất đai của Kheta và chiếm đoạt bất cứ thứ gì từ đó.

 Ngoài một phiên bản Ai Cập của thỏa hiệp hòa bình này, một bản sao Hittite cũng được phát hiện tại thủ đô Hattushash của Hittite nay là Thổ Nhĩ Kỳ.

Dĩ nhiên, như bao thỏa hiệp hòa bình khác, thỏa hiệp này chỉ kéo dài khi hai người ký nó còn sống, có nghĩa là rồi đây chiến tranh sẽ lặp lại lần nữa với những đời vua sau.

Tấn công ồ ạt biên cương: Merentah


Người lên kế vị ngai vàng của Ramses là con trai thứ 13 của ông: Merenptah (1212-1202 BC). Thời trị vì của Merenptah chứng kiến trở lại vấn đề Lybia, vấn đề từng xảy ra dưới triều vua Sety I. Chiến tranh với người Lybia được ghi chép trên một bản chạm khắc tại Karnak cũng như nhiều bia ký khác.

Trong năm trị vì thứ năm của Merenptah, người Lybia liên minh với nhiều bộ tộc khác nhau. Quân số lên đến 25,000 người, lực lượng này thường được biết dưới tên Dân Miền Biển. Họ đủ mạnh để xâm nhập những pháo đài dọc theo vùng Châu thổ phía tây và tràn ngập đội quân phòng thủ của Ai Cập. Dân Miền Biển rõ ràng di chuyển đến Ai Cập với âm mưu xâm chiếm nó, vì nhiều người mang cả gia quyến đi theo và tất cả đồ tế nhuyển được chất đống lên xe bò.

Merenptah hành quân đến vùng Châu thổ với một quân đội tuyển chọn, chủ yếu là cung thủ. Nhờ vậy họ có thể tiến sát quân địch để bắn một trận mưa tên trước khi quân địch có thể tiến gần đánh cận chiến tay đôi, vốn là điểm mạnh của quân Lybia.

Cuối cùng, chiến thắng thuộc về người Ai Cập. Ghi chép của họ cho thấy họ đã giết 6,000 quân Lybia, bắt được 9,000 tù binh, kể cả vợ và con của thủ lĩnh.

Chiến thắng này giúp người Ai Cập sống trong hòa bình thêm một lần nữa. Các ghi chép xác nhận rằng người Ai Cập bây giờ có thể ‘bước đi tự do trên đường’ và ‘ngồi xuống chuyện trò mà không lo sơ’.

Dĩ nhiên, buồn thay hòa bình không được lâu dài, khi con trai Ramses III của Merenptah chẳng mấy chốc phát hiện ra điều đó.

 

Dong Buồm đến Chiến Thắng: Ramses III


Thời trị vi của Ramses III (1182-1151 BC) là một thời kỳ khó khăn, hứng chịu nhiều cuộc xâm lược, mà quan trọng nhất là cuộc tấn công lần nữa của người Lybia và Dân Miền Biển.

Lại đánh thắng Dân Miền Biển

Cuộc tấn công của người Lybia vào năm trị vì thứ năm của Ramses III rất giống với trận đánh mà Merenptah giải quyết. Một đạo quân 30,000 người gồm người Lybia và Dân Miền Biển đối đầu với Ramses III. Các ghi chép nói rằng Ramses III giết được 12,535 người và bắt được 1,000 tù binh __ một chiến thắng dòn dã, nếu ghi chép là thật.

Tuy nhiên, trong thực tế, Dân Miền Biển là đội quân đầu tiên đủ hùng mạnh để đánh thắng được quân Hittite, nhờ đó kiểm soát con đường giao thương vào Cận Đông trên biển và trên bộ. Trên đất, Dân Miền Biển chiến đấu theo cách tương tự như người Hittite với chiến mã xa ba người. Nhưng các chiến thuyền của họ nhỏ hơn chiến thuyền Ai Cập,

và không có tay chèo riêng. Thay vào đó, Dân Miền Biển vừa chèo thuyền vừa chiến đấu. Điều này đúng là bất lợi so với chiến thuyền Ai Cập, trong đó có 24 tay chèo chuyên nghiệp, có bờ thuyền cao che chắn, thêm các chiến binh đi kèm.

Ramses III đối đầu Dân Miền Biển trên biển và trên bộ và chiến thắng trên cả hai mặt trận. Trận hải chiến của ông là một trong những trận hải chiến xưa nhất được ghi lại trong lịch sử. Đội thuyền Ai Cập đi theo đội thuyền Dân Miền Biển vào cửa sông của Châu thổ, ép chúng vào bờ, nơi các cung thủ Ai Cập đang chực sẵn và bắn ra trận mưa tên. Dân Miền Biển liền vỡ trận.

Binh lính Ai Cập dùng tên lửa bắn vào chiến thuyền địch và giết hầu hết quân địch. Chiến thuyền Ai Cập sau đó dùng mũi thuyền đâm vào thuyền địch, rồi quăng móc sắc tóm lấy thuyền địch và nhào lên đánh cận chiến. Chiến thuật này đã làm Dân Miền Biển vỡ trận hoàn toàn. Ai Cập lại có hòa bình một lần nữa.

Bọn Lybia quấy nhiễu lại đến


Vào năm trị vì 11 của Ramses III, bọn Lybia cho rằng đã đến thời cơ vượt biên giới Ai Cập lần nữa. Lần này, ghi chép cho thấy Ramses đã giết 2,175 quân địch và bắt làm tù binh hơn 2,000 người. Sau đó ông truy kích kẻ thù 11 dặm vào tận Tây Sa Mạc để bảo đảm chúng không quay lại quấy rối.

Vào cuối thời trị vì của Ramses III vinh quang của đế chế Ai Cập kết thúc. Ramses III là vị vua cuối cùng cai trị đúng phong cách truyền thống. Những thời kỳ sau này Ai Cập bị vây bủa bởi những cuộc xâm lấn, đất đai bị chia cắt, nền kinh tế sụp đổ. Đế chế mà Thutmosis III xây dựng và Sety I và Ramses III bảo tồn dần dần biến mất __ và nền văn minh Ai Cập cũng tan biến theo cùng với nó.

Charlotte Booth

Trần Quang Nghĩa dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét