Người Ai Cập cổ đại - Chương 6: Lần Theo Sự Suy Thoái và Sụp Đổ của Văn Minh Ai Cập - Giáo sư Còi - Kênh Học Thuật Chuyên Sâu

Breaking

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2021

Người Ai Cập cổ đại - Chương 6: Lần Theo Sự Suy Thoái và Sụp Đổ của Văn Minh Ai Cập

 


Chương 6
Lần Theo Sự Suy Thoái và Sụp Đổ của Văn Minh Ai Cập


 


Trong Chương Này


⮚ Xâm chiếm các quốc gia khác và sống sót sau những cuộc xâm lăng


⮚ Chia quyền cai trị giữa các thủ lĩnh, thành phố, và quốc gia


⮚ Gặp gỡ những nhân vật tiếng tăm: Alexander Đại đế, Cleopatra, và những người khác


 Cho đến cuối thời Tân Vương quốc, Ai Cập là một quốc gia hùng mạnh, kinh tế ổn định, kiểm soát một số lớn các vùng lãnh thổ bao quanh. Ai Cập là một cường quốc phải dè chừng. Tuy nhiên, vào cuối thời Tân Vương quốc trong triều đại 20 (1185-1070 BC), văn hóa Ai cập truyền thống bắt đầu suy thoái. Sự suy thoái này bắt đầu với sự phân chia vương quyền của Ai Cập __ từ một vua sang hai vua (và thỉnh thoàng nhiều hơn) cai trị từ những thành phố khác nhau. Một Ai Cập thống nhất dưới quyền cai trị của một vì vua là một trong những khía cạnh quan trọng của vương quyền, vì thế sự thay đổi này không thích hợp với những truyền thống cổ xưa.


Chương này có tham vọng đề cập đến hơn 1,000 năm lịch sử Ai Cập __ từ thời kỳ huy hoàng sau Ramses II và Ramses III xuống đến bi kịch của Cleopatra.


Lịch sử Ai Cập tại thời điểm này có nhiều khúc quanh __ một số các sử gia hiện đại vẫn còn đang tìm hiểu. Bạn hãy tập trung vào bức tranh rộng lớn hơn ở đây. Trong khi những tiểu tiết thì thú vị, nhưng hãy chú  nhiều hơn đến làn sóng của đổi thay và các giai đoạn trong đó quyền kiểm soát nằm trong tay những nhóm, văn hóa, và quốc gia khác nhau.


Để bạn có một cái nhìn toàn diện vào sự kết thúc của đế quốc Ai Cập cổ đại hơn một ngàn năm lẻ này có thể tóm lược như sau:


Thời kỳ Trung Gian Thứ Ba (1080-525 BC): Đặc điểm của thời kỳ này là có nhiều nhà cai trị đồng thời từ những vùng khác nhau của Ai Cập.


Thời kỳ Cuối (525-332 BC): Đặc điểm của thời kỳ này là sự xâm lăng của ngoại bang và những vương triều thay đổi liên tục.


Thời kỳ Hy lạp-La mã (332-30 BC): Bắt đầu với cuộc xâm lăng của Alexander Đại Đế và kết quả là sự thay đổi văn hóa mạnh mẽ do sự xâm nhập của người Hy lạp vào Ai Cập.


Chia Hai Vùng Đất: Ramses XI và Trở Về Sau


Sự suy tàn của đế quốc Ai Cập bắt đầu vào những năm đầu của thời trị vì của Ramses XI (1098-1070 BC). Quyền lực  nhà vua dần dần suy giảm phần lớn do những vấn đề về kinh tế. Các tăng lữ thần Amun tích lũy của cải và quyền lực. (Mỉa may thay, chính nhà vua đã góp phần vào việc này qua  quà biếu, phẩm vật, và việc xây dựng các công trình ở đền thờ Karnak tại Luxor.) Cuối cùng các thầy tu nắm được quyền lực không kém vua Ramses XI; chỉ trừ nhà vua có một lợi thế hơn là kiểm soát quân đội.


Các vấn đề xảy ra khi Tổng trấn Nubia, Panehsy, xung đột với trưởng tế đền Amun, Amenhotep. Panehsy nắm thế thượng phong trong chín tháng, ngăn thầy trưởng tế thực thi các trọng trách về tôn giáo. Cuối cùng Amenhotep quay sang cầu cứu Ramses XI.


Là một ông vua sùng đạo, Ramses tiến đánh Panehsy, khiến ông này sau đó bị lưu đày đến Nubia, và Amenhotep lấy lại vị thế trưởng tế và giữ vị trí đó một số năm trước khi Herihor kế nhiệm ông.


Herihor bổng thêm lông thêm cánh


Ramses XI vẫn giữ mối giao hảo với dòng tu Amun và phong tặng Herihor các tước vị quân sự mà trước đây Panehsy từng nắm giữ. Đây quả là một sai lầm quá lớn, vì lần đầu tiên một người giữ cả hai tước vị tôn giáo và quân sự, khiến quyền lực của Herihor vượt hơn cả nhà vua.


Herihor lợi dụng tối đa tình thế và đoạt lấy vai trò của vua trong khi Ramses XI tội nghiệp còn đang sống sờ sờ. Ramses biết rõ là Herihor đang chờ đợi mình chết để hoàn tất ý đồ. Mặc dù Herihor chết trước khi có thể trở thành hoàng đế thực sự, ông vẫn nhận một cartouche (xem Chương 11) và truyền lại chức vị cao cấp này cho con rễ là Piankhy, cũng cai trị song song với Ramses. Khi Ramses XI mất, vào năm 1070 BC, bốn năm sau khi Piankhy trị vì, Piankhy tiếp tục cai trị Thebes như một vì vua thực thụ, mặc dù chỉ được vài tháng.


Mặc dù địa vị các thầy tu dòng Amun lên cao, quyền lực của họ không vượt ra ngoài Thebes __ chắc hẳn vì họ không quan tâm.


Cai trị ở phía bắc: Các vua Tanis


Trong khi các thầy tu dòng Amun cai trị nam Ai Cập, phương bắc do Smendes (1069-1043 BC), một người không rõ xuất thân, cai trị. Ông ta cai trị từ Tanis ở đông Châu thổ, được xây dựng từ các tàn tích của thành phố của Ramse II ở Pi-Ramese. Smedes tự phong vương sau khi cưới được một con gái của Ramses XI.


 Smendes truyền ngôi cho Psusennes I (1039-991 BC), và ông này cho phép con gái mình lấy vị trưởng tế dòng Amun, Menkhepere. Cuộc hôn nhân này cho thấy mối giao hảo giữa các nhà cai trị bắc nam. Mối quan hệ nói chung tích cực này giữa hai miền nam bắc tiếp tục suốt thời trung gian thứ ba và đến đầu thời kỳ cuối. Vương triều Tanis, được biết dưới tên triều đại 21, kéo dài xấp xỉ 350 năm, là thời kỳ hưng thịnh, thương mại và kinh tế phát triển.


Nghĩa trang của các nhà vua Tanis được phát hiện vào năm 1939, bao gồm một phần mộ hoàng gia duy nhất còn nguyên vẹn ở Ai Cập. (Ngay cả lăng mộ của Tutankhamun cũng bị trộm ở thời cổ ít nhất hai lần.) Các đồ tạo tác trong lăng mộ này rất ấn tượng nhưng không được dư luận quan tâm vì lúc đó đang bắt đầu Thế Chiến II. Những phát hiện lý thú bao gồm:


Đồ tùy táng của Psusennes I. Xác ướp của Psusennes đeo một mặt nạ thần chết bằng vàng và một quan tài hình người bằng bạc ròng.


Quan tài của Sheshonq I. Quan tài rất đẹp và độc đáo hình chim ưng. Thật ra, bạc thì qu{ hơn vàng vì Ai Cập không có bạc, phải nhập từ nước ngoài.


Thống nhất ngắn ngủi hai vùng đất: Sheshonq I


Vương triều Tanis 22 (945-745 BC), nối gót vương triều 21, cũng do các vua từ Tanis cai trị. Vị vua đầu tiên của thời kỳ này là Sheshonq I (945-924 BC), tự phong vương sau khi lấy con gái của Psusennes II, vị vua cuối cùng của vương triều 21.


Sheshonq hình như là một thủ lĩnh của bộ tộc du mục Meshwesh người Lybia. Mặc dù là người Lybia, Sheshonq I thống nhất Ai Cập đang phân chia và cai trị cả Thượng và Hạ Ai Cập. Sở dĩ ông làm được điều này vì con trai ông giữ chức trưởng tế dòng Amun.


 Kết thúc thời hòa bình của Sheshonq


Mặc dù Sheshonq I nỗ lực cai trị một Ai Cập thống nhất và duy trì khả năng quân sự của quốc gia Ai Cập, vào cuối vương triều 22 xứ sở lại lâm vào cảnh rối loạn và phân chia. Mặc dù giới tu sĩ dòng Amun lúc đó nằm dưới sự kiểm soát của nhà vua phương bắc qua mối


ràng buộc gia đình, vào cuối triều đại trưởng tế mới lên kế vị không còn bị ràng buộc huyết thống, kết quả là một cuộc nội chiến kéo dài hơn một thập niên.


Sau cuộc nội chiến là giai đoạn hòa bình ngắn ngủi, tiếp theo những cuộc nổi dậy và hận thù không những gây chia rẻ nam-bắc mà còn đông-trung tâm trong vùng Châu thổ giữa các thủ lĩnh vùng Leontopolis (vùng trung tâm) và Tanis (đông). Cuộc trị vì của Sheshonq I dần dần sụp đổ trong cảnh hổn loạn.


Quá nhiều vua


Các vấn đề trong vùng Châu thổ cuối cùng chứng kiến một sự thay đổi vương quyền trong khi vị vua thứ bảy của vương triều 22, Sheshonq III còn đang trị vì từ Tanis.


Có ba vị vua cai trị 100 năm sau cho đến cuối vương triều 22, nhưng lúc bấy giờ nhiều nhà cai trị khác xuất hiện trên khắp vùng Châu thổ. Đáng kể nhất trong số này là Pedibast, một thủ lĩnh bản địa vùng Leontopolis, chiếm quyền cai trị vùng trung tâm Châu thổ và tách Ai Cập thành ba phần. Các thành viên trong gia đình Pedibast và Sheshonq (đông) đi về phương nam để gia nhập giới tu sĩ dòng Amun, bảo đảm mối liên kết hoàng tộc tồn tại với nhân tố quyền lực này.


Về cuối vương triều 23, lại xuất hiện một vương triều khác khiến sự phân chia càng sâu sắc hơn:


✔ Vua Sheshonq III ở Tanis (vương triều 22)


✔ Vua Iupet ở Leontopolis (vương triều 23)


✔ Vua Peftjauabaster ở Herakleopolis (vương triều 23)


✔ Vua Nimlot ở Hermopolis (vương triều 23)


✔ Vua Tefnakht ở Sais (vương triều 24)


Mỗi ông vua này chỉ cai trị một vùng đất nhỏ, nhưng tất cả đều xưng danh hiệu hoàng đế và viết tên mình trong các cartouche. Mỗi người hình như đều mãn nguyện với sự sắp xếp này và cùng chung sống hòa bình với nhau. Tuy nhiên, vào cuối thời kỳ (khoảng 727 BC), một mối hiểm họa lớn hơn xuất hiện chấm dứt sự phân chia thêm manh mún __ quyền lực của Nubia . Thật ra, mối hiểm họa mới này tạo động lực cho các ông vua liên minh với nhau và hợp tác cùng nhau.


Sức ép từ phương Nam: Ảnh hưởng của Nubia


Khoảng 727 BC, quyền lực và ảnh hưởng của người Nubia lan đến phía bắc từ xứ sở của họ tận miền Thebes. Nếu người Nubia tiến xa hơn lên phía bắc, họ có thể khuấy động sự bình yên của một miền bắc phân chia. Do đó các vua phương bắc của vương triều 22 (Tanis), 23 (Leontopolis, và 24 (Sais) đoàn kết lực lượng chống trả với nhóm cai trị người Nubia (vương triều 25) để chặn đứng sự bành trướng thêm của quyền lực phía nam.


Quyền lực lớn mạnh


Nubia trước đây chưa hề là hiểm họa của Ai Cập. Cho đến thời trị vì của Ramses II (xem Chương 4) vùng đất này nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của người Ai Cập. Họ bóc lột các mỏ đá và mỏ vàng của dân Nubia. Sau khi thực lực của Ramses II suy yếu, người Nubia bắt đầu tách ra khỏi Ai Cập và tìm cách thành lập kinh đô của mình ở Napata (gần thác nước thứ tư của sông Nile).


Trong thời vương quyền 21, các trưởng tế dòng Amun có ảnh hưởng lớn với Nubia và thậm chí xây dựng một đền thờ Amun bề thế ở Gebel Barkal bên trong lãnh thổ Nubia. Các thầy tu của đền thờ này cũng bành trướng quyền lực của họ ra những vùng chung quanh và cuối cùng lật đổ vương quyền của Nubia.


Các ông vua Nubia này cũng dùng các tước vị và cartouche theo kiểu các vua truyền thống của Ai Cập. Sau khi vương triều Nubia vực dậy, nó bắt đầu tiến về phía bắc đến Ai Cập, lúc đó vương triều Ai Cập đã yếu đi nhiều do phân chia manh mún. Người Nubia chụp lấy cơ hội này để xoay ngược thế cờ và kiểm soát Ai Cập.


Ai Cập là giới hạn: Piankhy


Vua Nubia Piankhy (có khi được gọi là Piye) đối đầu với bốn ông vua phương bắc của các vương triều 22-24 vào năm 727 BC và đánh bại họ. Mặc dù ông tước bỏ các vương hiệu của họ, Piankhy vẫn ban cho họ một số quyền hạn trong vai trò các tổng trấn bản địa, mà thật ra cũng không khác mấy với vai trò vua chúa manh mún của họ trước đây.


Để củng cố vị thế của mình là một hoàng đế Ai Cập, Piankhy đoạt quyền của dòng tu Amun, nắm quyền lực tối cao trên miền Thebes. Các ông vua kế vị ông vẫn duy trì mối liên hệ này với dòng tu Amun, cả ở Thebes và ở Nubia.


Mặc dù liên minh với dòng tu Amun ở Thebes, Piankhy chọn cai trị từ thủ đô Napata ở Nubia. Ông được an táng trong một kim tự tháp ở el-Kurru, bắc Gebel Barkal. Những nhà cai trị về sau cũng được an táng trong các kim tự tháp. Những kim tự tháp này rất khác với kim tự tháp Ai Cập vì chúng nhỏ mà cao và hẹp. Nhiều kim tự tháp Nubia cũng chứa các phẩm vật tùy táng, có cả đồ trang sức bằng vàng.


Người kế nghiệp Piankhy, con trai ông Shabaka, mở rộng lãnh thổ của vương triều Nubia bao gồm trọn xứ Ai Cập từ nam đến bắc tới tận biên cương của miền Sais trong vùng Châu thổ.


Chinh Phục Cận Đông: Người Assyria


Cùng lúc với ảnh hưởng của Nubia bành trướng lên Ai Cập, đế quốc Assyria cũng bành trướng khắp vùng Cận Đông. Một vài cuộc nổi dậy của người Assyria bùng nổ sát biên giới Ai Cập, nhưng các vua Nubia dập tắt được.


Tuy nhiên, vào thời pha-ra-ông Taharqa của Nubia (690-664 BC), người Assyria và người Nubia đã nhiều lần chạm trán nhau. Cả hai lần lượt nắm thế thượng phong, chứng tỏ họ kỳ phùng địch thủ. Tình thế chắc hẳn đã khiến các vương triều Nubia mới bực bội vì họ chưa hưởng được bao lâu thành quả cai trị khắp Ai Cập mà họ từng khao khát.


Vào năm 671 BC, vua Assyria, Esarhaddon, thực sự tiến vào Ai Cập, nắm quyền kiểm soát miền bắc đến tận Memphis. Điều này có nghĩa Vua Taharqa phải bôn tẩu xuống miền nam Ai Cập. Mặc dù còn duy trì quyền kiểm soát vùng Châu thổ, người Assyria bỏ đi, chỉ trở lại vào năm 669 BC. Tuy nhiên, Esarhaddon chết trên đường hành quân và con trai ông Ashurbanipal lên kế vị, cuối cùng cũng nắm quyền kiểm soát xứ Ai Cập.


Ashurbanipal cuối cùng kiểm soát được Thebes vào năm 661 BC, làm vua cả Thượng và Hạ Ai Cập. Sự kiện khiến Taharqa và những người kế vị ông phải chạy xa hơn về nam đến tận kinh đô Napata của Nubia, bên ngoài biên giới của Ai Cập, không bao giờ bén mảng đến Ai Cập lần nữa.


Thời kỳ Saite: Psamtik I và những Người Khác


Sau 665 BC, người Assyria kiểm soát toàn xứ Ai Cập __ mặc dù họ cử những người Ai Cập lên làm vua, dưới quyền sai bảo của họ, dĩ nhiên. Ai Cập giờ đây trở thành một nước chư hầu của đế quốc Assyria. Kinh đô tọa lạc tại Sais trong vùng Châu thổ, và các vua trong thời kỳ Saite tạo thành vương triều 26. (Vì vương triều 25 của Nubia vẫn còn quyền kiểm soát khi người Assyria chiếm miền bắc, hai vương triều này tồn tại song song.)


Psamtik I (664-610 BC) của vương triều 26 Saite được giao nhiệm vụ củng cố quyền kiểm soát của Assyria trên khắp Ai Cập, kể cả Thebes. Psamtik gởi con gái mình Nitocris đến đền thờ Amun ở Karnak, tại đó bà được phong tước vị Vợ Thần Amun, một vị trí khá cao trong thứ bậc giáo phẩm. Sự kết hợp quyền lực hoàng gia và tôn giáo __ cũng như sự giàu có của giáo hội __ bảo đảm miền bắc và miền nam được cai trị bởi một ông vua duy nhất. Ai Cập thống nhất kiểu này tuy vậy không vững vàng, và Psamtik bắt buộc phải xua quân đánh dẹp nhiều thủ lĩnh gây rối nổi dậy trong vùng Châu thổ. Các thủ lĩnh đều muốn chia phần kiểm soát Ai Cập, và người Assyria thì muốn chỉ có một nhà cai trị duy nhất để dễ bề chi phối.


Trở về truyền thống


Trong khoảng 50 năm cai trị, Psamtik tạo được một số thay đổi cho Ai Cập. Ông cố đưa Ai Cập trở về các truyền thống của quá khứ, nhằm tiếp nối dòng chảy văn hóa. Để thực hiện điều này, ông đưa vào một số yếu tố tôn giáo, nghệ thuật, và nghi thức từ thời Vương quốc Cũ và Mới.


Tuy nhiên, muốn là một vì vua thực sự truyền thống trong đất nước Ai Cập truyền thống thì đất nước phải thoát khỏi ảnh hưởng của ngoại bang. Việc loại trừ các ảnh hưởng bên ngoài là điều khó thực thi, nhưng Psamtik đã làm được. Năm 653, sau khi một số bất ổn nội bộ làm suy yếu quyền lực Assyria, Psamtik thoát khỏi sự kềm kẹp của Assyria và giành quyền kiểm soát Ai Cập bằng quyền lực của mình. Sự tách ra này có nghĩa là Ai Cập một lần nữa trở thành quyền lực chủ động của vùng Cận Đông.


Về hải quân


Người kế nghiệp Psantik, Nekau II, tiếp tục cải thiện vị thế của Ai Cập trong vùng Cận Đông và nắm quyền kiểm soát Syria-Palestine trở lại. Nekau thành lập lực lượng hải quân Ai Cập chính thức đầu tiên, bao gồm một số người Hy lạp vùng Ionia. Trước đây, Ai Cập chủ yếu là một quốc gia ven sông không có nhu cầu về hải quân.


Trong vương triều 26, Ai Cập gia tăng thương mại với người Hy lạp, đang có mạng lưới giao thương tăng cường nhộn nhịp. Để gia tăng quy mô giao thương ở Ai Cập, Nekau bắt đầu cho xây dựng một kênh đào nối Wadi Tumilat đến Biển Đỏ __ 2,500 năm trước khi Kênh Đào Suez được hoàn thành với cùng mục đích. Kênh đào hoàn tất đủ rộng để chứa được một đội thương thuyền đi qua và làm thay đổi mối quan hệ buôn bán của Ai Cập.


Xoa dịu đám đông


Vì mối quan hệ buôn bán gia tăng trong thời kỳ này, một số di dân người ngoại bang đến định cư tại Ai Cập, chủ yếu trong vùng Châu thổ. Lúc đó họ tương đối ôn hòa, nhưng trong suốt thời trị vì của Ahmose II (570-526 BC), nhiều cuộc nội chiến giữa những nhóm ngoại nhân khác nhau bùng lên.


Ahmose cố gắng giới hạn những xung đột này bằng cách cho ngoại nhân sống trong thị trấn Naukratis của vùng Châu thổ có quyền buôn bán đặc biệt, do đó tạo ra một loại ‘vùng tự do’ cho người di dân đến Ai Cập. Một số có thể xem hành động này hơi bất công đối với người Ai Cập bản xứ, nhưng ít nhất nhờ thế họ ngừng đánh nhau, và khuyến khích quan hệ buôn bán và nhiều di dân vào Ai Cập.


Vẫn chưa lạnh


Việc Psamtik tách ra khỏi lệ thuộc người Assyria  đưa đến sự suy thoái dần dần và cuối cùng là sự sụp đổ của đế quốc Assyria, và thêm một lần nữa, Ai Cập trở thành quốc gia hùng mạnh nhất trong khu vực. Vị thế này không kéo dài lâu, vì ai cũng muốn lấp đầy khoảng trống mà người Assyria để lại. Những ông vua Assyria đã yếu đi bị tấn công từ nhiều dân tộc, bao gồm:


✔ Người Babylon dưới triều vua Naboplassar


✔ Người Medes (người Iran cổ)


✔ Scythia (người Urkrainia và người Nga phía nam)


Người Assyria thậm chí còn yêu cầu Psamtik tiếp tay chống đỡ. Dù vậy, họ cũng thua trận, và vào năm 612 BC đế quốc Assyria tan rã với sự thất thủ của kinh thành Nineveh do người Ba tư tấn công.


Người Ai Cập mừng chưa lâu khi đế quốc một thời hùng mạnh đã sụp đổ, vì người Ba tư liền sau đó tiến đánh Ai Cập, chiếm lấy ngai vàng của họ vào năm 525 BC. Ông vua thiếu kinh nghiệm Psamtik III cố gắng ngăn chận quân thù nhưng cuối cùng bị người Ba tư truy đuổi đến Memphis trước khi bị bắt và đưa đến kinh đô Ba tư như một tù binh.


Vương triều 27 của Ba tư kéo dài hơn 100 năm (525-404 BC) và được sử gia Herodotus ghi lại. Ông đã nêu ra ba lý do tiềm năng mà vua Ba tư Cambyses II khởi binh xâm lược Ai Cập ngay từ đầu, mặc dù Herodotus không chắc lắm về cách giải thích này:


✔ Cambyses muốn một thê thiếp người Ai Cập nhưng được gởi đến một bà quý tộc hạng hai thay vì lẽ ra một công chúa, vì thế ông xâm lược Ai Cập.


✔ Cambyses có thể có giòng máu nửa Ai Cập, có thể là con ngoại hôn của con gái vua Saite Apries.


✔ Cambyses ngay từ nhỏ đã thề sẽ xâm lược Ai Cập để trả thù cho mẹ mình bị người Ai Cập sỉ nhục.


Nếu Herodotus không chắc lý do Cambyses xâm lược Ai Cập, làm sao các sử gia hiện đại lại chắc chắn được? Dù với bất cứ lý do nào, cuộc xâm lược của người Ba tư là hành động xấu xa, được người Bedouin tiếp tay dẫn đường đến biên giới Ai Cập. Sau khi Bedouin và Ba tư đến, họ rất hung hản và tàn bạo, lôi xác ướp của vua Saite là Ahmose ra khỏi lăng mộ và châm lửa đốt. Biết sao được, người Ai Cập cũng đâu có kém gì.


Để trả thù cho sự phản bội của một viên tướng đánh thuê, người Ai Cập lôi hai con trai của y ra trước mặt y và quân Ba tư và cắt cổ họ. Máu được hứng trong một chậu lớn, pha với nước và rượu, rồi chia cho quân sĩ uống. Tuy nhiên, cũng giống như Herodotus không mấy chắc chắn về câu chuyện của Cambyses, có lẽ chuyện này cũng là một giai thoại quá trớn. Không có ghi chép nào về việc người Ai Cập uống máu người.


 


Cai trị Ai Cập từ xa


Mặc dù Cambyses và người Ba tư đã đánh thắng người Hy lạp và Ai Cập, nhưng họ không nghĩ đến việc chiếm đóng. Cambyses sống và được chôn cất tại Ba tư (Iran ngày nay).


Trong thời trị vì của ông (525-522 BC) ông bổ nhiệm một tổng trấn địa phương cai trị Ai Cập nhân danh ông __ mặc dù ông được biểu thị ở Ai Cập như một ông vua Ai Cập có tên khắc trên cartouche theo lối truyền thống.


Tuy nhiên, người kế vị Cambyses là Darius I (521-486 BC) lại quan tâm nhiều đến Ai Cập. Ông cho xây dựng một số đền thờ và thúc đẩy công việc trùng tu từ vùng Châu thổ đến Aswan. Darius cũng tiếp tục và hoàn tất công trình kênh đào giữa Wadi Tumilat và Biển Đỏ mà Nekau của vương triều Saite đã bắt đầu.


Vào năm 486 BC, mặc dù ảnh hưởng tích cực của Darius lớn mạnh trên Ai Cập, người Ai Cập vùng dậy. Cuộc khởi nghĩa chỉ được đè bẹp trong triều vua sau, Xerxes. Thời cai trị của ông (485-465 BC) không phải là một thời kỳ hòa bình, và vào cuối thời trị vì đó người Hy lạp xâm lược Ai Cập.


Sau một thời gian hòa hoãn, Xerxes bị ám sát giữa một cuộc nổi dậy khác của người Ai Cập. Cuộc chiến kéo dài một thời gian, và vua Ba tư bị con cháu của vương triều 26 từ miền Châu thổ đánh bại nhờ sự hổ trợ của quân đội đánh thuê người Hy lạp. Người Ai Cập cuối cùng có thể giành lại quyền kiểm soát trong thời trị vì của hai vị vua cuối


cùng của thời kỳ Ba tư, Darius II (423-403 BC) và Artaxerxes II (405-359 BC), sau đó một số rắc rối xảy ra trong hoàng tộc Ba tư khiến tiềm lực phòng ngự của họ suy yếu trước các trận công kích.


Vẫn còn nhiều vương triều nữa


Sự suy thoái của văn hóa Ai Cập thực ra trượt dài vào khoảng 400 BC, với các ông vua nắm quyền kiểm soát được chăng hay chớ và gây ra nhiều sự bất ổn. Có lẽ tình hình không gây bối rối mấy cho người cổ Ai Cập!


Vương triều 28 (404-399 BC) chỉ gồm một vị vua ít tiếng tăm tên Amyrtaeus, người đã thành công sau sáu năm dùng du kích chiến chống lại các nhà vua Ba tư để mang lại ngai vàng cho Ai Cập. Ông chỉ nắm quyền kiểm soát toàn Ai Cập trong thời gian ngắn ngủi từ kinh đô ở Sais trong vùng Châu thổ xuống đến tận biên giới Aswan.


Vương triều 29 (399-380 BC) dời kinh đô từ Sais đến Mendes xa hơn về nam, cho thấy vùng kiểm soát của Ai Cập còn rộng. Mendes chắc chắn là nơi tốt hơn để điều hành đất nước. Hai vị vua của vương triều này chắc hẳn cũng được an táng tại đây, mặc dù lăng mộ của họ chưa được tìm thấy.


Vương triều 30 (380-343 BC) hơi có thực chất hơn, với tổng cộng ba vua. Những ông vua này bỏ phần lớn thời gian giám sát việc xây dựng theo truyền thống cổ để duy trì sự liên tục giữa triều đại của họ với triều đại các tiên vương.


Triều đại này cũng tham gia một số trận đánh bảo vệ Ai Cập trước sự xâm lược của Ba tư.


Nectanebo II được nghỉ ngơi đôi chút khi Ba tư lại nổ ra tranh chấp nội bộ và xung đột với người Hy lạp và người Levantine. Vào năm 343 BC, Nectanebo II, cùng với quân Ai Cập và 20,000 lính đánh thuê người Hy lạp, canh giữ biên giới vùng Châu thổ chống lại cuộc tấn kích dữ dội của quân Ba tư do Artaxerxes III cầm đầu. Chẳng bao lâu phòng tuyến biên giới bị chọc thủng, vùng Châu thổ và tiếp theo Memphis thất thủ rơi vào tay quân xâm lược Ba tư. Nectanebo bôn tẩu xuống Nubia, nhưng không lâu sau đó biệt tích; có thể đã chết.


Cái chết của Nectanebo II vào năm 343 là một đòn trí mạng cho Ai Cập vì một số lý do. Trước tiên, người Ai Cập lần nữa nằm dưới ách đô hộ của các vua Ba tư. Thứ hai, Nectanebo là nhà cai trị cuối cùng của Ai Cập cho đến khi Cộng hòa Ai Cập bầu được tổng thống đầu tiên của họ, Tướng Muhammad Naguib, vào năm 1953 AD. Thật là một thời kỳ quá dài dưới ách đô hộ của ngoại bang.


 


Một chu kỳ nữa dưới ách đô hộ Ba tư


Kết thúc vương triều Nectanebo II chứng kiến sự khởi đầu của thời kỳ đô hộ thứ hai của Ba tư (343-332 BC). Một lần nữa người Ba tư khá khắc nghiệt với xứ sở họ thôn tính. Các tư liệu Hy lạp mô tả tình trạng quân Ba tư làm cỏ các thành phố, cướp bóc đền thờ, giết chóc các con vật thiêng, và đánh thuế dân chúng cho đến khi họ sạch túi.


Thêm một lần nữa, các vua Ba tư cai trị qua một tổng trấn bù nhìn từ kinh đô của họ ở Ba tư. Vương triều này (mà một số sử gia xem là thứ 31) chỉ kéo dài 10 năm, với hai vị vua đầu tiên, Artaxerxes III và Arses, bị ám sát, và tên vua hèn nhát Darius III mở cửa biên giới của Ai Cập cho phép Alexander Đại Đế tiến vào Ai Cập vào năm 332.


Người Macedonia xâm lược: Alexander Đại Đế


Việc vua Macedonia là Phillip II bị ám sát vào năm 336 BC chứng kiến sự khởi đầu màn tấn công của Alexander vào đế quốc Ba tư. Alexander là con trai của Phillip, người tiếp nối xuất sắc tham vọng của cha mình. Alexander đến Ai Cập năm 332, làm suy thoái thêm nền văn hóa cổ Ai Cập. Nếu người Ba tư không chiếm đóng Ai Cập tại thời điểm này thì có thể Alexander sẽ để yên cho Ai Cập, và lịch sử sẽ thay đổi.


Thành thần


Alexander muốn được văn hóa Ai Cập chấp nhận. Một trong những việc đầu tiên ông làm là đi tới Siwa để xin sấm truyền thần Amun chỉ dạy hầu chứng tỏ mình là con của thần linh và do đó là vì vua hợp pháp của Ai Cập.


Lể đăng quang của Alexander được tiến hành tại trung tâm truyền thống Memphis và đến một mức độ nào đó ông cai trị theo đúng phong cách truyền thống Ai Cập. Ông chứng kiến việc trùng tu đền Luxor, thêm vào hình ảnh tỉ mỉ vẽ ông dâng lễ vật cho Amun-Min.


Sau đó, Alexander rời Ai Cập để tiếp tục chinh phạt khắp miền Cận Đông. Trước khi qua đời vào năm 323 BC, Alexander đã mở rộng đế quốc Macedonia, bao gồm cả Ai Cập, suốt một mạch đến Thung lũng Indus.


Biến Ai Cập thành nhà của mình


Khi Alexander Đại Đế không bận việc xâm lấn và chinh phạt, ông tập trung vào việc điều hành Ai Cập. Đặc biệt, ông:


Đưa hệ thống tiền tệ vào Ai Cập, trước đây người Ai Cập chỉ quen buôn bán qua đổi chác. Đồng tiền Ai Cập một mặt in hình Alexander, mặt kia là hình một vị thần Ai Cập, cho thấy ông muốn ví mình là một vị thần.


Thành lập thành phố Alexandria, trở thành kinh đô của Ai Cập. Thành phố được xây dựng tại một địa điểm trước đây là vùng định cư của người cổ Ai Cập tên là Raqote, nay chỉ còn là phế tích ít ỏi. Alexander giao việc xây dựng cho kiến trúc sự của ông là Deinokrates và một viên chức tên Kleomenes.


Alexandrie là một thành phố lớn __ vào thời điểm cực thịnh dân số lên đến hơn nửa triệu người bao gồm một số lớn di dân Hy lạp và Do thái. Nó là nơi đô hội, tập trung nhiều công trình nổi tiếng, như một thư viện và viện bảo tàng buồn thay đã bị tàn phá trong thời cổ. Thành phố có nhà tắm công cộng kiểu La mã, một hí viện, và một vận động trường. Những dinh cơ bề thế trong khu định cư La mã có trang trí kiểu hình khảm mosaic theo phong cách La mã, như Hình 6-1 cho thấy.

Thành phố Alexandria chỉ hoàn thành dưới triều vua Ptolemy II (285-246 BC).

Ptolemy I (305-282 BC) bắt đầu xây dựng tháp hải đăng Pharos ở Alexandria, là một trong Bảy kỳ Quan của Thời Cổ và là ngọn hải đăng đầu tiên trên thế giới. Kiến trúc này đã biến mất từ lâu __ có thể nằm dưới đáy biển.

Alexander Đại Đế mất năm 323 BC sau một cơn sốt, không để lại người thừa kế đế quốc. Cái chết của ông dẫn đến sự sụp đổ dần dần đế quốc Macedonia, với nhiều vị tướng khác nhau cắt cứ những vùng mình ưa thích.

Đế Quốc Cáo Chung: Vương Triều Ptolemy


Sau cái chết của Alexander Đại Đế và quyền kiểm soát đế quốc Ba tư sụp đổ, nhiều cuộc chiến và trận đánh manh mún nổi lên do các tướng lãnh của Alexander. Ai cũng muốn giành một phần của đế quốc rộng lớn. Cuối cùng Ptolemy trở lại Ai Cập như một tổng trấn dưới triều vua Phillip Arrhidaeus (323-317 BC), người kế vị con trai Alexander IV (317-305 BC) của Alexander Đại Đế __ sinh ra

sau khi cha mất. Trong thời trị vì của Alexander IV, Ptolemy, bạn từ thời thơ ấu của ông, thực sự nắm quyền cai trị, và khi Alexander IV mất Ptolemy lên ngôi vua chính thức. Năm 301 BC Ptolemy đã nắm quyền kiểm soát Palestine và Hạ Syria, tự tạo một đế quốc nhỏ của riêng mình.

Người cai trị Ai Cập thiếu óc tưởng tượng, vì Ptolemy thành lập vương triều của mình với các nhà cai trị đều lấy tên Ptolemy (lên đến Ptolemy XV), các nữ hoàng thì tên hoặc Cleopatra (bảy nữ hoàng) hoặc Berenice (bốn nữ hoàng).

Vương triều Ptolemy là một hình mẩu của sự song hành hai nền văn hóa rất khác nhau __ cổ Ai Cập và Hy lạp. Các nhà cai trị ủng hộ tôn giáo truyền thống của Ai Cập và xây dựng nhiều đền thờ, trong đó có đền Demdera, Edfu, Philae, và Kom Ombo. Trên bức tường của các đền thờ này các vua được miêu tả trong tư thế và y phục truyền thống Ai Cập, nhưng trên đồng tiền đúc họ được trình bày theo phong cách Hy lạp truyền thống.

 

Ngủ mắt nhắm mắt mở


Những thành viên trong hoàng gia Ptolemy không phải là những người nhân hậu.Nói như thế có vẽ như vơ đũa cả nắm nhưng đúng là gia đình này bị ám ảnh bởi quyền lực và ngai vàng và họ dùng bất cứ thủ đoạn nào để chiếm đoạt chúng. Họ không bị tai tiếng khi lấy anh trai hay em gái như là một phương tiện lên ngôi hợp pháp hoặc giành ngai vàng cho gia đình mình. (Lẽ dĩ nhiên, nhiều nhà vua cổ Ai Cập cũng kết hôn với người trong một gia đình, nhưng không phải tất cả cuộc hôn nhân này đều sinh con. Các cuộc hôn nhân kiểu Ptolemy đều qua chăn gối __ một cách đều đặn.)

Mặc dù có liên hệ thân thiết, các thành viên trong gia đình Ptolemy không hề áy náy khi ‘xử’ anh em, chồng vợ của mình để giành ngôi báu __ hoặc khử đi những cá nhân không tiếng tăm hoặc không thích hợp.

Nếu là một thành viên của gia đình này, bạn phải luôn đề phòng. Một số vua và nữ hoàng cùng những quan chức đã bị mưu sát hoặc chết một cách bí mật:

✔ Phillip Arrhidaeus bị một trong những cận vệ của mình ám sát.

✔ Berenice II bị đánh thuốc độc và ‘luộc’ đến chết bởi chính con trai mình Ptolemy IV.

✔ Vợ của Ptolemy IV, Arsinoe, bị anh người vợ hai của Ptolemy đánh thuộc độc.

✔ Ptolemy VII bị cha ghẻ và cũng là chú mình giết chết.

✔ Memphites bị cha mình, Ptolemy VIII, mưu sát. Thi thể bị chặt hết tứ chi được gởi đến em gái/vợ ông, Cleopatra II, như một món quà sinh nhật.

✔ Cleopatra III có thể bị con trai nhỏ của mình, Ptolemy X, mưu sát (mặc dù, trước đây, con trai lớn của bà, Ptolemy IX, đã từng bị kết án vì tội âm mưu ám sát bà).

✔ Berenice, con gái của Ptolemy IX, bị ám sát trong vòng một tháng sau khi cưới Ptolemy XI. Ông này không ưa gì bà và muốn ngai vàng là của mình.

✔ Ptolemy XI bị xử giảo trước công chúng sau khi chỉ cai trị được 19 ngày vì Berenice được nhiều người yêu mến.

✔ Berenice (lại Benerice!), con gái của Ptolemy XII, bị người La mã ám sát vì bà nổi loạn chống cha mình để chiếm lấy ngai vàng. Ptolemy XII cầu cứu sự giúp đỡ của Julius Caesar, nhà độc tài La mã.

✔ Ptolemy XIV, anh trai và chồng của Cleopatra VII (nổi tiếng vì có Mark Antony), chắc hẳn đã bị hoàng hậu khử để bà có thể đem con trai mình Ptolemy XV lên ngôi, bảo vệ ông khỏi rơi vào tay người La mã.

Đa số những cuộc ám sát này đều dính líu đến quyền lực và ngai vàng. Tuy nhiên, trong nhiều cuộc tranh giành nội bộ này, người La mã thường được yêu cầu tiếp tay để giải quyết tranh chấp. Mặc dù sự can thiệp của người La mã luôn bảo đảm có một phe thắng, được La mã ủng hộ và đứng sau lưng, La mã không hề quên đòi món nợ giúp sức. Trong thời Cleopatra VII trị vì, các lãnh tụ La ma đến để đòi nợ __ cuối cùng đưa đến sự sụp đổ của nền văn minh Ai Cập.

Chuyện tình lịch sử: Cleopatra và Mark Antony


Câu chuyện về Cleopatra và Mark Antony là một trong những chuyện tình bi thảm nổi tiếng nhất trên thế giới. Vai chính là Cleopatra VII, sinh khoảng năm 70 BC __ con gái của Ptolemy XII và em gái ông Cleopatra V. Nghĩ cũng lạ, mẹ của Cleopatra cũng là cô và cha mình cũng là cậu mình.

Ptolemy XII không được yêu mến ở Ai Cập vì thái độ nịnh hót của ông đối với La mã. Ông cũng là một nhà cai trị bạo ngược và bạc nhược (rất hợp là thành viên của gia đình Ptolemy). Vào năm 60 BC, sự chán ghét Ptolemy XII đã lên tột đỉnh khiến y phải chạy khỏi Ai Cập tìm sự an toàn ở La mã, trong khi đó trưởng nữ của ông, Berenice, chiếm lấy ngai vàng. Sau vài năm, với sự ủng hộ của La mã, Ptolemy quay về Ai Cập và chiếm lại ngôi vua.

Ông cai trị cho đến khi mất vào 52 BC, khi Cleopatra VII, ở tuổi 19, kết hôn với người em cùng cha khác mẹ của mình là Ptolemy XIII mới lên 10, và lên ngôi.

Vì chồng mình quá trẻ, Cleopatra cai trị Ai Cập một mình và loại bỏ gương mặt của Ptolemy khỏi đồng tiền mới đúc.  Không giống cha, Cleopatra là một nhà cai trị rất được nhân dân Ai Cập yêu mến __ chắc hẳn bởi vì bà là nhà cai trị dòng Ptolemy rất chịu khó học nói tiếng Ai Cập.


Một đồng tiền thời Ptolemy có chạm nổi chân dung Cleopatra VII

Dệt mạng lưới âm mưu


Ptolemy âm mưu lợi dụng tình cảm của nhân dân đối với nữ hoàng bằng cách ban bố một lệnh mạo tên bà theo đó mọi thóc lúa phải chuyển đến Alexandria chứ không đến Trung và Thượng Ai Cập. Việc này làm dân chúng nổi giận, và quay lưng chống lại Cleopatra. Cleopatra phải cuống cuồng bôn tẩu đến Ashkelon ở Syria.

Vào năm 48 BC, Julius Caesar tiến vào Ai Cập để giải quyết mối hận thù giữa Ptolemy XIII và Cleopatra. Cùng lúc đó Cleopatra tập hợp một binh đoàn ngay tại biên giới Ai Cập để tấn kích em mình. Caesar đến Alexandria quyết định mang Cleopatra trở lại ngôi báu, cho đến khi quần thần của Ptolemy mang đến cho ông một món quà __ thủ cấp một người bạn của Caesar.

Caesar liền hành quân vào thành phố, chiếm lấy cung điện, và làm chủ tình thế. Ông ra lệnh cho Ptolemy và Cleopatra giải tán quân đội và đến gặp ông để giải quyết vụ tranh chấp của họ như một người cha xử phạt hai đứa con hư. Tuy nhiên Cleopatra không dám khinh suất, biết rằng nếu mình đến Alexandria công khai, Ptolemy sẽ hành thích bà.

Vì thế bà lẻn vào cung điện bằng cách quấn mình trong một tấm thảm mang đến phòng của Caesar. Khi tấm thảm mở ra, Cleopatra hiện ra trước mặt Caesar và Caesar ngay lập tức phải lòng bà. Họ trở thành tình nhân đêm đó và sáng hôm sau Ptolemy xông ra khỏi cung điện vì cảm thấy mình bị phản bội. Sau đó không lâu ông bị bắt, binh lính ông liền bao vây cung điện.

Caesar phải thả Ptolemy ra, nhưng cuộc bao vây tiếp tục kéo dài gần sáu tháng và chỉ chấm dứt khi Ptolemy chết đuối dưới sông Nile. Sau đó Alexandria đầu hàng Caesar.

Giờ là một góa phụ, Cleopatra cưới em mình là Ptolemy XIV, lúc đó chỉ 11, 12 tuổi. Julius Ceasar tặng họ Cyprus như một món quà cưới. Mối quan tâm của ông dành cho Cleopatra đã bị đánh thức.

 

Tận hưởng những ngày hè biếng nhác với Julius


Mối giao tình giữa Caesar và Cleopatra thêm đậm đà, và vào năm 47 BC họ ngao du một chuyến lãng mạn trên sông Nile. Cleopatra chỉ mới 23 tuổi và có mang với Caesar. Hài nhi, lấy tên là Caesarion, ra đời không lâu sau khi họ trở lại Alexandria.


Trong đền Hathor ở Denderah một bức chạm nổi (xem Hình 6-2) cho thấy Cleopatra dâng con trai Caesarion trình diện các thần linh và đặt tên nó là ‘Ptolemy Caesar con trai của Julius Caesar và Cleopatra’ để chứng tỏ nó sẽ là người thừa kế ngai vàng.

Năm 46 BC, Cleopatra, Ptolemy XIV, và Caesarion đi nghỉ ở La mã để thăm Julius Caesar. Họ dừng chân ở dinh thự của Caesar gần La mã khoảng hai năm. Trong thời gian đó, Caesar tặng cho Cleopatra cả tấn quà và tước vị, đồng thời dựng một pho tượng của bà trong đền thờ Venus Genetrix. Người La mã kinh tởm trước chuyện tình ái lăng nhăng này, và phần nào nó là nguyên nhân dẫn đến vụ ám sát Caesar vào 44 BC.

Cleopatra, lo sợ cho số phận mình và con trai, vội vã chạy trốn về Ai Cập. Trước hoặc trong chuyến trở về Ai Cập, chồng Cleopatra là Ptolemy XIV chết một cách bí ẩn ở tuổi 15, có lẽ bị đầu độc, bỏ lại Cleopatra tự do cưới con trai mình Caesarion và phong cho con làm đồng nhiếp chính với bà, với vương hiệu Ptolemy XV.

Mark Antony bước vào


Sau cái chết của Caesar, đế chế La mã được phân chia cho ba người: cháu của Caesar Octavian, Marcus Lepidus, và Marcus Antonius, được biết nhiều hơn với cái tên ngày nay Mark Antony.

Cleopatra đã gặp Mark Antony lúc bà 15 tuổi, khi cha bà còn sống, lúc ấy Mark Antony đi đến Ai Cập hộ tống Julius Caesar. Lần sau Cleopatra gặp lại Mark Antony, vào 42 BC, thì bà đã 28 tuổi và ông đã hơn 40 tuổi. Mark đã chiếm phần phía đông của đế quốc La mã và phải dành nhiều thời gian ở Ai Cập hơn 16 năm tiếp theo.

Sống trọn vẹn


Mối quan hệ giữa Mark Antony và Cleopatra là mối quan hệ vui tươi, như Plutarch đã ghi chép:

 Bà chơi đổ xúc sắc với ông, uống rượu với ông, đi săn với ông; và khi ông thao dượt quân đội bà ở đó xem. Ban đêm bà cùng ông đi chọc phá, quấy rầy thiên hạ, bà thì mặc như một con hầu, còn ông cũng ngụy trang làm người hầu. . . Tuy nhiên, dân chúng Alexandria nói chung cũng thích chuyện ấy, và sẵn lòng tham gia vào trò đùa cợt của ông.

Sau bốn năm qua lại, Cleopatra sinh đôi: Alexander Helios (mặt trời) và Cleopatra Selene (mặt trăng). Antony công nhận hai đứa trẻ là con mình và còn đề nghị cho Alexander cưới con gái của vua xứ Armenia để giảng hòa hai nước. Nhưng vua Armenia từ khước, và thế là Antony tấn công ông ta vào năm 34 BC. Đáng đời.

Vào 37 BC, trên đường xâm lược Parthia, Antony hẹn hò với Cleopatra, mặc dù Octavian đã cưới Antony cho em gái mình là Octavia như một cách để ngăn không cho Anthony trở về Ai Cập. Dù vậy, từ đó trở đi Alexandria vẫn là tổ ấm của Antony và Cleopatra là lẽ sống của ông. Antony cưới Cleopatra vào 36 BC tại Antioch ở Bắc Syria, trong lễ cưới ông ăn mặc như thần Osiris còn bà như nữ thần Isis.

Không lâu sau đó, bà sinh thêm một con trai, Ptolemy Philadelphus, và Anthony cũng công nhận con. Vào 34 BC, Anthony phong Alexander Helios vua xứ Armenia, Cleopatra Selene nữ hoàng Cyrenaica và Crete, và Ptolemy Philadelphus vua xứ Syria.

Bắt đầu của sự kết thúc


Antony hoàn toàn bỏ rơi bà vợ La  Mã Octavia, khiến Octavian và người La Mã nổi dóa. Sau ba năm, Octavian quyết định thống trị toàn đế chế, đem quân tiến đánh Cleopatra và Antony. Vào 31 BC, lực lượng của Antony chạm trán với quân La mã trong một trận hải chiến ngoài bờ biển Actium (bắc Hy lạp), với sự hổ trợ của Cleopatra và 60 chiến thuyền Ai Cập.

Khi Cleopatra trông thấy các chiến thuyền của Anthony cồng kềnh, xoay trở chậm chạp thất thủ trước chiến thuyền La mã nhẹ hơn, nhanh hơn, bà bỏ chạy. Antony bỏ mặc quân đoàn để chạy theo bà.

 

Tình yêu không chinh phục tất cả


Vào 30 BC, Octavian tiến đến Alexandria, và Mark Antony đón chờ y với lực lượng thủy bộ đã thưa thớt. Ngay khi trông thấy quân La Mã, các chiến thuyền của Antony dơ cao mái chèo ra chào đón và chạy đến nhập phe, liền sau đó bộ binh và kỵ binh cũng đào ngũ theo__ bỏ lại Antony một mình. Cleopatra, quá kinh hải, tự nhốt mình trong lăng mộ của chính mình và đưa tin cho Antony báo là mình đã chết!

Antony, cảm thấy có điều gì không ổn, bèn tự tử nhưng không chết ngay. Trong khi hấp hối, nghe tin Cleopatra thật ra còn sống, ông ra lệnh mang mình đến bên bà ngay lập tức.

Khi Antony đến lăng mộ, Cleopatra sợ quá không dám mở cửa. Bà và hai tì nữ buông dây thừng xuống qua cửa sổ để kéo Antony lên. Trong đau khổ, Cleopatra đặt Antony lên giường và ông chết trong vòng tay bà.

Trong lúc đó, Octavian đã xâm chiếm Alexandria và nắm quyền kiểm soát cung điện của Cleopatra, rắp tâm bắt bà trở về La Mã để kéo lê bà qua đường phố với xiềng xích.

Octavian cùng với tùy tùng đi thẳng đến lăng mộ, nhưng Cleopatra không cho y vào. Họ thương lượng với bà qua khung cửa đóng kín, bà ra yêu cầu Ai Cập phải giao lại cho các con của bà.

Trong khi Cleopatra bận mặc cả tại cửa vào, quân của Octavian bắc thang và trèo qua cửa sổ. Thấy vậy, Cleopatra cố tự sát bằng dao găm nhưng bị giải giới và bắt cùng với các con.

Octavian cho phép Cleopatra sắp xếp việc hậu sự cho Antony. Cleopatra tổ chức một tang lễ theo cung cách hoàng gia cho người yêu. Sau đám tang Cleopatra quá sầu muộn, nằm vùi trên giường.

Cleopatra cương quyết chết theo người yêu Antony. Bà sắp xếp người hầu bí mật mang vào lăng mộ một con rắn mào cực độc nằm bên dưới một giỏ đựng quả sung, để qua mắt bọn lính gác La Mã. Khi giỏ đưa đến, bà luồn tay vào đáy giỏ cho rắn cắn. Trong giây phút cuối cùng, Cleopatra cũng kịp viết bức thư cho Octavian cầu xin ông cho mình được an táng trong lăng mộ của Antony.

Octavian chạy ngay đến lăng mộ nhưng đã quá muộn __ Cleopatra đã chết.

Người duy nhất còn lại có thể ngán đường Octavian nắm quyền kiểm soát Ai Cập là Caesarion, liền nhanh chóng bị y loại bỏ. Ai Cập giờ đây nằm dưới quyền đô hộ của La mã.

Người La mã đang đến


Cái chết của Cleopatra vào 30 BC mở đường cho La mã đô hộ Ai Cập. Tuy vậy, Ai Cập không hẳn là một tỉnh lỵ của La Mã theo nghĩa đúng của từ này. Octavian (sau này là Hoàng đế Augustus) sử dụng Ai Cập như một vùng đất riêng, được một quan chức trông coi và chỉ nghe theo lệnh ông. Ai Cập trở thành một nơi cung cấp lương thực chính yếu cho đế quốc La mã và được coi như một giỏ bánh mì của La mã.



Các hoàng đế tiếp sau Augustus lên ngôi báu Ai Cập đã thử trị vì theo phong cách Ai Cập truyền thống, xây dựng đền thờ cho các thần linh Ai Cập, và có khi đóng vai như các vì vua Ai Cập khi thực hiện các nghi thức truyền thống.

Mặc dù văn hóa Ai Cập không thể nhận ra được sau cuộc xâm chiếm của Alexander, nhiều dòng tu Ai Cập vẫn được duy trì dưới thời La Mã trị vì. Vào 394 AD, đền thờ Philae còn được sử dụng và tại đây còn lưu lại bảng khắc cuối cùng dùng chữ tượng hình ở Ai Cập.

Phải mất 1,400 năm sau nữa trước khi có người biết đọc được nó lần nữa.

Cái chết của Cleopatra là đề tài cho nhiều bức họa thời trước, hình trên đây là một trong số đó

Charlotte Booth

Trần Quang Nghĩa dịch




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét