GIỚI THIỆU NGƯỜI Ai CẬP CỔ ĐẠI
Trong phần này . . .
Người Ai cập cổ đại được khắp thế giới biết đến qua kim tự tháp và vàng bạc châu báu của mình. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần của câu chuyện. Người Ai cập là một phần của một xã hội phức tạp, rộng lớn, đứng đầu là một vị vua và những thợ không lành nghề đứng dưới đáy. Giống như một kim tự tháp vậy.
May thay, người Ai cập để lại hàng đống thông tin liên quan đến cuộc sống thường nhật của họ. Phần này sẽ khám phá các ngôi nhà họ nương náu, hệ thống giáo dục, và phân bố xã hội liên quan đến hôn nhân, ly hôn, và người già cả.
Chương 1
Bối Cảnh: Địa Lý Và Lịch Sử Ai Cập Cổ Đại
Trong Chương Này
Khám phá phong cảnh Ai Cập
Thống nhất hai vùng đất
Khảo sát đẳng cấp của xã hội Ai Cập
Người Ai Cập cổ đại đã lôi kéo sự tưởng tượng trong hàng thế kỷ. Từ khi các nhà Ai Cập học giải mã được chữ tượng hình vào đầu thế kỷ 19, nền văn minh phi thường này đã rộng mở đón nhận các nhà sử học, khảo cổ, và những người bình dân hiếu kỳ.
Thông tin về người Ai Cập cổ đại bùng nổ, bao gồm các sự kiện đầy mê hoặc về hầu hết các lãnh vực về cuộc sống của họ __ mọi thứ từ vai trò của phụ nữ, tình dục, và mỹ phẩm, cho đến việc đánh cá, săn bắn, và tác chiến.
Cuộc sống các dân Ai Cập cổ đại có thể dễ dàng được phân loại. Như bất kỳ sử gia đúng mực nào, bạn cần nhìn văn minh như một tổng thể, và điểm bắt đầu tốt nhất là nguồn gốc của dân tộc gây kinh ngạc này.
Vậy ai là người Ai Cập cổ đại? Họ xuất thân từ đâu? Chương này sẽ trả lời cho bạn và bắt đầu vẽ nên bức tranh về một nền văn hóa được tổ chức tinh vi đã phát triển, hưng thịnh, và cuối cùng sụp đổ dọc theo bờ sông Nile.
Sông Nile: Nguồn Cội của Sự Sống
Văn minh cổ Ai Cập sẽ không bao giờ được phát triển nếu không có sông Nile. Sông Nile từng là __ và còn là __ nguồn nước duy nhất trong miền đất bắc Phi này. Không có nó, không sự sống nào có thể bền vững.
Cổ Ai Cập thường được gọi là thung lũng sông Nile. Thuật ngữ này nói đến vùng đất phì nhiêu nằm dọc theo bờ sông, bao phủ một diện tích 34,000 cây số vuông. Toàn bộ phần đất này không thay đổi nhiều trong 5,000 năm qua, mặc dù dòng sông ít nhiều thay đổi, và nhờ hệ thống tưới tiêu nhân tạo vùng đất đã gia tăng độ phì nhiêu đôi chút.
Kích cỡ và tầm ảnh hưởng
Sông Nile là con sông dài nhất thế giới, chạy dài 6,741 km từ đông Phi đến biển Địa Trung Hải. Sáu thác nước lớn do đá trồi lên từ lòng sông, ngăn chia phần phía nam của sông Nile giữa Aswan và Khartoum. Thác đầu tiên ở Atwan tạo thành biên giới tự nhiên của Ai Cập cho đến Vương Triều Mới (1550 B. C.), khi người cổ Ai Cập bắt đầu đi càng xa về phía nam để săn tìm vàng và các vùng lãnh thổ để dựng lên đế chế của họ.
Bảng đồ Ai Cập dưới triều đại Pha-ra-ông
Sông Nile chạy từ nam đến bắc __ từ nội địa Phi châu cho đến biển Địa Trung Hải. Phần phía nam Ai Cập gọi là Thượng Ai Cập vì nó gần nguồn sông Nile nhất, phần phía bắc gọi là Hạ Ai Cập.
Phần phía bắc Ai Cập xòe ra thành một chuỗi những kênh đào, tất cả đều dẫn đến Địa Trung Hải. Phần phía bắc Ai Cập này được biết dưới tên Châu thổ và chủ yếu là đầm lầy. Vùng này đặc biệt phì nhiêu __ cây papyrus (dùng làm giấy trên đó nhiều văn tự cổ Ai Cập còn lưu lại được viết) mọc xum xuê ở đó.
Cơn lụt không đến
Trong thời trị vì của Djoser ở triều đại thứ ba, Ai Cập đã kinh qua bảy năm đói kém vì lụt hàng năm thấp một cách bất thường. Vua chịu trách nhiệm trước tình hình vì ông là trung gian giữa người phàm và các đấng thần linh, và tình trạng đói kém được coi là sự trừng phạt của thần linh dành cho vị vua không làm tròn chức trách. Trên Đảo Sehei ở nam Ai Cập, Ptolemy V (204-181 B. C.) đã cho dựng một bia kí ghi lại trận đói kém này và hành động của Djoser:
Ta ngồi rầu rĩ trên ngai vàng. Mọi người trong cung điện đều sầu não . . . vì Hapy [cơn lụt] không đến đúng hẹn. Trong thời hạn bảy năm, lúa thóc khan hiếm, hạt giống nứt nẻ . . . Mọi người cướp bóc lẫn nhau . . . Trẻ con kêu khóc . . . Người già quẫn bách . . . Đền thờ đóng cửa, Lăng mộ phủ bụi, Mọi người đều u sầu . . . Ta tham vấn một quan chức, vị trưởng tế của Imhotep . . . Y chạy đi, rồi nhanh chóng chạy về gặp ta.
Imhotep, công trình sư của kim tự tháp bậc thang (xem Chương 14), lần theo cội nguồn sông Nile đến đảo Elephantine và hang động Khnum. Ông trấn an vua Djoser là sự thờ phụng trở lại thần Khnum sẽ làm trận lũ trở về. Nghe lời, Djoser vâng lễ vật cúng tế đến đền thờ thần Khnum, cơn lũ mong đợi lần nữa trở lại, dâng cao đến mức độ mong muốn, khiến Ai Cập hồi phục vị thế nông nghiệp vốn có, và làm sống lại lòng tin của dân chúng vào vua Djoder.
Tuy nhiên, vì bia ký này được viết hơn 2,000 năm sau ngày xảy ra biến cố, các sử gia gặp khó khăn khi đánh giá sự chính xác của nó như một chứng cứ lịch sử. Một số học giả tin rằng tấm bia ký này là một bản sao của một kiểu mẫu thời Cựu Vương triều được Djoser dựng lên; một số khác tin rằng nó được dựng trong thời đại Ptolemaic như một minh chứng cho việc trùng tu đền thờ Khnum. Sự thật có thể không bao giờ được biết.
Lũ lụt: Sống còn và thịnh vượng
Mỗi năm vào các tháng giữa tháng 7 và 10 sông Nile dâng lũ, nước tràn ngập hai bên bờ sông cao đến 2 bộ (khoảng 6 cm). Khi nước rút xuống, phù sa đen mang phì nhiêu đến cho ruộng đồng. Vì vậy người Ai Cập gọi xứ sở mình là Kemet, nghĩa là ‘đất đen’. Bằng sự quản lý mùa màng cẩn mật và hệ thống kênh mương tưới tiêu tinh vi, thung lũng sông Nile trở thành một vùng nông nghiệp chủ yếu.
Mặc dù lũ lụt sông Nile là phúc thần cho thành tựu nông nghiệp của văn minh cổ Ai Cập, nhưng nguy cơ vẫn luôn tìm ẩn khi lũ lụt quá nhiều hoặc quá ít. Tình trạng nào cũng gây ra mất mùa, đói kém, và chết chóc.
TỪ năm 1830 AD, một chuỗi những con đập và cửa cống ở đầu mút phía nam sông Nile được xây dựng để điều tiết lũ lụt. Vào năm 1960 AD, người Ai Cập xây dựng Đập Cao ở Aswan, chấm dứt tình trạng lũ lụt của sông Nile. Mặc dù những kỹ thuật mới này tạo ra một môi trường bền vững cho người Ai Cập hiện đại canh tác, bản chất ổn định của sông Nile ngày nay làm người ta khó lòng tưởng tượng được cảnh thăng trầm của cuộc sống người cổ Ai Cập.
Gặp gỡ người cổ Ai Cập
Người cổ xưa sống ở thung lũng sông Nile là tập hợp của nhiều nhóm sắc tộc với nhiều nguồn gốc khác nhau. Trước 5000 B. C., thung lũng sông Nile không có dân tộc nào định cư, vì miền đất chung quanh dồi dào thực vật và do một số bộ lạc du mục săn bắn-hái lượm sinh sống, họ chạy theo những đàn thú lớn như sư tử, hưu cao cổ, và đà điểu làm nguồn lương thực.
Tuy nhiên, do khí hậu thay đổi khoảng 5,000 B. C., vùng đất bao quanh sông Nile bắt đầu khô cằn, không còn đủ sức nuôi sống những con thú lớn. Sự biến đổi khí hậu này có nghĩa là các bộ lạc du mục phải quy tụ về thung lũng sông Nile vì con sông dần dần trở nên nguồn nước duy nhất trong khu vực.
Kết quả là dân số Ai Cập đầu tiên là một tập hợp những bộ lạc du mục khác nhau, dần dần hợp nhất với nhau và tạo nên một xã hội mới:
Ở nam Ai Cập, nguồn gốc dân chúng gần với Nubia hơn, kết quả là một giống người có nước da ngâm đen hơn.
Ở bắc Ai Cập, nguồn gốc dân chúng thiên về Cận Đông hơn, tạo thành giống người có nước da nhạt hơn.
Khoảng 3100 B. C. và bắt đầu thời kỳ pha-ra-ông trong lịch sử Ai Cập, một nền văn hóa mới __ văn hóa Ai Cập được công nhận ngày nay __ phát triển từ tổ hợp các dân tộc, các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau này.
Hẹn hò với người xưa
Một trong những lãnh vực thuộc sử Ai Cập gây bối rối nhiều nhất là cách tính niên đại đặc biệt cho các thời kỳ, thời trị vì, và ngay cả việc ghi lại ngày tháng những trận đánh và lễ lạc. Hơn nữa, một lịch sử kéo dài hơn 3,000 năm chứa nhiều điều làm đầu bạn rối tung.
Vấn đề càng khó hơn khi chính người Ai Cập không có hệ thống tính niên lịch tập trung như chúng ta ngày này (chẳng hạn, B. C. và AD). Thay vào đó, họ qui chiếu niên đại theo những năm trị vì của ông vua đương thời. Ví dụ năm thứ 5 thời Ramses II hoặc năm thứ 16 thời Akhenaten.
Hệ thống này chắc chắn hiệu quả đối với thời cổ, nhưng nó không hữu ích với các nhà Ai Cập học nhiều __ nhất là khi một số đời vua không được ghi lại hoặc thời gian trị vì chính xác không được đảm bảo. Vì thế, ví dụ, định niên đại từ năm 4 đời vua Ramses đến năm 2 đời vua Merenptah là điều hoàn toàn có nghĩa đối với người dân Ai Cập, nhưng nếu bạn không biết Ramses II trị vì bao lâu và bạn không biết liệu giữa hai vị vua này có ông vua nào khác nữa.
Mathetho đến giải cứu
Các nhà Ai Cập học hiện đại không chỉ là những người duy nhất nghĩ rằng hệ thống niên lịch của Ai Cập rắc rối. Manetho, một sử gia và pháp sư Ai Cập từ thể kỷ thứ ba B. C., đã sáng chế ra hệ thống niên lịch vương triều mà đến này vẫn còn được sử dụng.
Theo hệ thống này, sự thay đổi triều đại được đề cập bất kỳ khi nào có sự thay đổi triều đại trong hoàng tộc, địa lý, hoặc bất kỳ giải pháp liên tục nào trong việc tiếp nối trị vì của các vua. Manetho chia các đời vua Ai Cập thành 31 triều đại, rồi được chia nhỏ thành ba vương quốc chính với những thời kỳ ‘trung gian’ giữa chúng.
- Thời kỳ triều đại đầu: Triều đại 0-2, khoảng 3150-2686 BC
- Vương quốc cổ: Các triều đại thứ 3 đến thứ 6, khoảng 2686-2181 BC.
- Thời kỳ trung gian thứ nhất: Các triều đại thứ 7 đến thứ 10, khoảng 2181-2040 BC.
- Trung Vương quốc: Các triều đại thứ 11 đến thứ 12, khoảng 2040-1782 BC.
- Thời kỳ trung gian thứ hai: Các triều đại thứ 13 đến 17, khoảng 1782-1570 BC.
- Tân Vương quốc: Các triều đại thứ 18 đến 20, khoảng 1570-1070 BC
- Thời kỳ trung gian thứ ba: Các triều đại thứ 21 đến 26, khoảng 1080-525 BC
- Thời ký cuối cùng: Các triều đại thứ 27 đến 30, khoảng 525-332 BC
Hệ thống niên lịch này đã tỏ ra rất hữu dụng, và các nhà Ai Cập học nhờ đó có thể bổ sung các niên lịch theo thứ tự thời gian cho các triều đại. Tuy nhiên các niên lịch này không khớp nhau trong các sách sử, và sự khập khiễng này khiến các độc giả rất lúng túng. Vì lý lẽ này, tham chiếu các triều đại hơn là niên lịch thường dễ hiểu hơn. Các niên lịch tôi dùng trong sách này dựa trên Biên Niên Sử các Pha-ra-ông của Peter Clayton, bảng niên đại được phổ biến rộng rãi.
Thống Nhất Hai Vùng Đất
Mặc dù có chệch choạc về hệ thống niên lịch, các người cổ Ai Cập là một nền văn minh rất có tổ chức. Điều này đặc biệt hiển nhiên trong sự phân chia xứ sở của họ. Sự phân chia quan trọng nhất về mặt chính trị là sự phân chia nam-bắc. Sự phân chia này, chia Ai Cập thành Thượng Ai Cập (phía nam) và Hạ Ai Cập (phía bắc) được biết đến như Hai Vùng Đất __ một khái niệm lấn át ý thức hệ vương quyền từ thời cai trị của vị vua đầu tiên, Narmer (3100 BC), đến những ngày cuối cùng của Cleopatra VII (30 BC).
Thạch bản Narmer, một bản đá cao khoảng 64 cm, cho thấy Narmer thống nhất đất nước __ một trận chiến được ghi lại sớm nhất trong lịch sử Ai Cập. Nó mô tả Narmer chinh phục Hạ Ai Cập để trở thành vua của Hai Vùng Đất.
Từ thời này trở đi, bất kỳ vị vua nào cần cai trị cả Thượng và Hạ Ai Cập mới có thể được công nhận là vị vua thực sự của Ai Cập. Những người Ai Cập xem quan niệm này như là một phần nền tảng của vương quyền mà họ kết hợp danh hiệu ‘vua Thượng và Hạ Ai Cập’ thành hai trong năm danh hiệu truyền thống mà vua nhận được tại lễ đăng quang của mình.
Những tên hiệu này mô tả một vài yếu tố trong thời trị vì của nhà vua. Thứ tự truyền thống của những tên này là:
- Tên thần Horus
- Dưới sự bảo hộ của nữ thần diều hâu của Thượng Ai Cập và nữ thần hổ mang của Hạ Ai Cập.
- Tên thần Golden Horus
- Dưới sự bảo hộ của cây lách của vùng Thượng Ai Cập và con ong của vùng Hạ Ai Cập.
- Con trai của thần Ra
Biểu Thị Hai Vùng Đất
- Vương miện trắng của Thượng Ai Cập
- Vương miện đỏ của Hạ Ai Cập
- Vương miện kép của Thượng và Hạ Ai Cập
- Cây lách của Thượng Ai Cập
- Con ong của Hạ Ai Cập
- Nekhbet nữ thần diều hâu của Thượng Ai Cập
- Wadjet nữ thần rắn hổ mang của Hạ Ai Cập
- Cây papyrus của Hạ Ai Cập
- Cây sen của Thượng Ai Cập
- Sen và papyrus được kết quanh biểu tượng ‘tim và phổi’ của Ai Cập, chỉ một Ai Cập thống nhất
Thống nhất đông và tây
Phân chia nhỏ hơn
Đi Theo Kinh Thành Trôi Nổi
Định Cư tại Thebes
Các khu định cư ngắn hạn khác
Cư Trú tại Thung Lũng Sông Nile
Bước Lên Nấc Thang Xã Hội Ai Cập
Là vua của đám đông
- Quốc sư của tất cả đền thờ trên đất nước
- Tổng tư lệnh quân đội (nhất là trong thời kỳ Tân Vương quốc)
- Trưởng ngoại giao trong các hiệp ước thương mại và hòa bình
- Trung gian giữa nhân dân và các thần linh
- Vua được coi là hiện thân của thần Horus trên mặt đất __ và do đó là một vị thần đầy quyền lực. Địa vị thần thánh này có nghĩa là ông ta có thể giao tiếp trực tiếp với các vị thần linh vì lợi ích của nhân dân Ai Cập. Làm toại nguyện các thần linh cũng là trách vụ của ông ta. Nếu Ai Cập bị bệnh dịch, đói kém, lũ lụt, hoặc chiến tranh hoành hành, người Ai Cập tin rằng nhà vua đang bị thần linh trừng phạt và không làm cho dân chúng hạnh phúc là lỗi của ông ta. Thật có quá nhiều áp lực cho một người!
Phục vụ thần linh
Tăng quyền lực cho tầng lớp ưu tú
Các tổng trấn, hãy sẵn sàng
Quân đội chính qui của Ai Cập
Tể tướng lên chức
Cầu cho tư tế hộ trì
Chuyển giao quyền lực
Tầng lớp lao động rộng lớn: Sản xuất ra của cải
Nông dân: Muối của đất
Người lao động: Phục vụ nhà nước
Thợ thủ công: Đẽo cho đẹp
Charlotte Booth
Trần Quang Nghĩa dịch


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét