Người Ai Cập cổ đại - Chương 1: Bối Cảnh: Địa Lý Và Lịch Sử Ai Cập Cổ Đại - Giáo sư Còi - Kênh Học Thuật Chuyên Sâu

Breaking

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2021

Người Ai Cập cổ đại - Chương 1: Bối Cảnh: Địa Lý Và Lịch Sử Ai Cập Cổ Đại





GIỚI THIỆU NGƯỜI Ai CẬP CỔ ĐẠI


Trong phần này . . .


Người Ai cập cổ đại được khắp thế giới biết đến qua kim tự tháp và vàng bạc châu báu của mình. Tuy nhiên, đây chỉ là một phần của câu chuyện. Người Ai cập là một phần của một xã hội phức tạp, rộng lớn, đứng đầu là một vị vua và những thợ không lành nghề đứng dưới đáy. Giống như một kim tự tháp vậy.


May thay, người Ai cập để lại hàng đống thông tin liên quan đến cuộc sống thường nhật của họ. Phần này sẽ khám phá các ngôi nhà họ nương náu, hệ thống giáo dục, và phân bố xã hội liên quan đến hôn nhân, ly hôn, và người già cả.  


 


Chương 1


Bối Cảnh: Địa Lý Và Lịch Sử Ai Cập Cổ Đại


Trong Chương Này
Khám phá phong cảnh Ai Cập
Thống nhất hai vùng đất
Khảo sát đẳng cấp của xã hội Ai Cập

Người Ai Cập cổ đại đã lôi kéo sự tưởng tượng trong hàng thế kỷ. Từ khi các nhà Ai Cập học giải mã được chữ tượng hình vào đầu thế kỷ 19, nền văn minh phi thường này đã rộng mở đón nhận các nhà sử học, khảo cổ, và những người bình dân hiếu kỳ.


Thông tin về người Ai Cập cổ đại bùng nổ, bao gồm các sự kiện đầy mê hoặc về hầu hết các lãnh vực về cuộc sống của họ __ mọi thứ từ vai trò của phụ nữ, tình dục, và mỹ phẩm, cho đến việc đánh cá, săn bắn, và tác chiến.


Cuộc sống các dân Ai Cập cổ đại có thể dễ dàng được phân loại. Như bất kỳ sử gia đúng mực nào, bạn cần nhìn văn minh như một tổng thể, và điểm bắt đầu tốt nhất là nguồn gốc của dân tộc gây kinh ngạc này.


Vậy ai là người Ai Cập cổ đại? Họ xuất thân từ đâu? Chương này sẽ trả lời cho bạn và bắt đầu vẽ nên bức tranh về một nền văn hóa được tổ chức tinh vi đã phát triển, hưng thịnh, và cuối cùng sụp đổ dọc theo bờ sông Nile.


Sông Nile: Nguồn Cội của Sự Sống


Văn minh cổ Ai Cập sẽ không bao giờ được phát triển nếu không có sông Nile. Sông Nile từng là __ và còn là __ nguồn nước duy nhất trong miền đất bắc Phi này. Không có nó, không sự sống nào có thể bền vững.


Cổ Ai Cập thường được gọi là thung lũng sông Nile. Thuật ngữ này nói đến vùng đất phì nhiêu nằm dọc theo bờ sông, bao phủ một diện tích 34,000 cây số vuông. Toàn bộ phần đất này không thay đổi nhiều trong 5,000 năm qua, mặc dù dòng sông ít nhiều thay đổi, và nhờ hệ thống tưới tiêu nhân tạo vùng đất đã gia tăng độ phì nhiêu đôi chút.


Kích cỡ và tầm ảnh hưởng


Sông Nile là con sông dài nhất thế giới, chạy dài 6,741 km từ đông Phi đến biển Địa Trung Hải. Sáu thác nước lớn do đá trồi lên từ lòng sông, ngăn chia phần phía nam của sông Nile giữa Aswan và Khartoum. Thác đầu tiên  ở Atwan tạo thành biên giới tự nhiên của Ai Cập cho đến Vương Triều Mới (1550 B. C.), khi người cổ Ai Cập bắt đầu đi càng xa về phía nam để săn tìm vàng và các vùng lãnh thổ để dựng lên đế chế của họ.

Bảng đồ Ai Cập dưới triều đại Pha-ra-ông


Sông Nile chạy từ nam đến bắc __ từ nội địa Phi châu cho đến biển Địa Trung Hải. Phần phía nam Ai Cập gọi là Thượng Ai Cập vì nó gần nguồn sông Nile nhất, phần phía bắc gọi là Hạ Ai Cập.


 Phần phía bắc Ai Cập xòe ra thành một chuỗi những kênh đào, tất cả đều dẫn đến Địa Trung Hải. Phần phía bắc Ai Cập này được biết dưới tên Châu thổ và chủ yếu là đầm lầy. Vùng này đặc biệt phì nhiêu __ cây papyrus (dùng làm giấy trên đó nhiều văn tự cổ Ai Cập còn lưu lại được viết) mọc xum xuê ở đó.


Cơn lụt không đến


Trong thời trị vì của Djoser ở triều đại thứ ba, Ai Cập đã kinh qua bảy năm đói kém vì lụt hàng năm thấp một cách bất thường. Vua chịu trách nhiệm trước tình hình vì ông là trung gian giữa người phàm và các đấng thần linh, và tình trạng đói kém được coi là sự trừng phạt của thần linh dành cho vị vua không làm tròn chức trách. Trên Đảo Sehei ở nam Ai Cập, Ptolemy V (204-181 B. C.) đã cho dựng một bia kí ghi lại trận đói kém này và hành động của Djoser:


Ta ngồi rầu rĩ trên ngai vàng. Mọi người  trong cung điện đều sầu não . . . vì Hapy [cơn lụt] không đến đúng hẹn. Trong thời hạn bảy năm, lúa thóc khan hiếm, hạt giống nứt nẻ . . . Mọi người cướp bóc lẫn nhau . . . Trẻ con kêu khóc . . . Người già quẫn bách . . .  Đền thờ đóng cửa, Lăng mộ phủ bụi, Mọi người đều u sầu . . . Ta tham vấn một quan chức, vị trưởng tế của Imhotep . . . Y chạy đi, rồi nhanh chóng chạy về gặp ta.


 Imhotep, công trình sư của kim tự tháp bậc thang (xem Chương 14), lần theo cội nguồn sông Nile đến đảo Elephantine và hang động Khnum. Ông trấn an vua Djoser là sự thờ phụng trở lại thần Khnum sẽ làm trận lũ trở về. Nghe lời, Djoser vâng lễ vật cúng tế đến đền thờ thần Khnum, cơn lũ mong đợi lần nữa trở lại, dâng cao đến mức độ mong muốn, khiến Ai Cập hồi phục vị thế nông nghiệp vốn có, và làm sống lại lòng tin của dân chúng vào vua Djoder.


Tuy nhiên, vì bia ký này được viết hơn 2,000 năm sau ngày xảy ra biến cố, các sử gia gặp khó khăn khi đánh giá sự chính xác của nó như một chứng cứ lịch sử. Một số học giả tin rằng tấm bia ký này là một bản sao của một kiểu mẫu thời Cựu Vương triều được Djoser dựng lên; một số khác tin rằng nó được dựng trong thời đại Ptolemaic như một minh chứng cho việc trùng tu đền thờ Khnum. Sự thật có thể không bao giờ được biết.


 


Lũ lụt: Sống còn và thịnh vượng


Mỗi năm vào các tháng giữa tháng 7 và 10 sông Nile dâng lũ, nước tràn ngập hai bên bờ sông cao đến 2 bộ (khoảng 6 cm). Khi nước rút xuống, phù sa đen mang phì nhiêu đến cho ruộng đồng. Vì vậy người Ai Cập gọi xứ sở mình là Kemet, nghĩa là ‘đất đen’. Bằng sự quản lý mùa màng cẩn mật và hệ thống kênh mương tưới tiêu tinh vi, thung lũng sông Nile trở thành một vùng nông nghiệp chủ yếu.


Mặc dù lũ lụt sông Nile là phúc thần cho thành tựu nông nghiệp của văn minh cổ Ai Cập, nhưng nguy cơ vẫn luôn tìm ẩn khi lũ lụt quá nhiều hoặc quá ít. Tình trạng nào cũng gây ra mất mùa, đói kém, và chết chóc.


TỪ năm 1830 AD, một chuỗi những con đập và cửa cống ở đầu mút phía nam sông Nile được xây dựng để điều tiết lũ lụt. Vào năm 1960 AD,  người Ai Cập xây dựng Đập Cao ở Aswan, chấm dứt tình trạng lũ lụt của sông Nile. Mặc dù những kỹ thuật mới này tạo ra một môi trường bền vững cho người Ai Cập hiện đại canh tác, bản chất ổn định của sông Nile ngày nay làm người ta khó lòng tưởng tượng được cảnh thăng trầm của cuộc sống người cổ Ai Cập.


Gặp gỡ người cổ Ai Cập


Người cổ xưa sống ở thung lũng sông Nile là tập hợp của nhiều nhóm sắc tộc với nhiều nguồn gốc khác nhau. Trước 5000 B. C., thung lũng sông Nile không có dân tộc nào định cư, vì miền đất chung quanh dồi dào thực vật và do một số bộ lạc du mục săn bắn-hái lượm sinh sống, họ chạy  theo những đàn thú lớn như sư tử, hưu cao cổ, và đà điểu làm nguồn lương thực.


Tuy nhiên, do khí hậu thay đổi khoảng 5,000 B. C., vùng đất bao quanh sông Nile bắt đầu khô cằn, không còn đủ sức nuôi sống những con thú lớn. Sự biến đổi khí hậu này có nghĩa là các bộ lạc du mục phải quy tụ về thung lũng sông Nile vì con sông dần dần trở nên nguồn nước duy nhất trong khu vực.


Kết quả là dân số Ai Cập đầu tiên là một tập hợp những bộ lạc du mục khác nhau, dần dần hợp nhất với nhau và tạo nên một xã hội mới:


Ở nam Ai Cập, nguồn gốc dân chúng gần với Nubia hơn, kết quả là một giống người có nước da ngâm đen hơn.

Ở bắc Ai Cập, nguồn gốc dân chúng thiên về Cận Đông hơn, tạo thành giống người có nước da nhạt hơn.

Khoảng 3100 B. C. và bắt đầu thời kỳ pha-ra-ông trong lịch sử Ai Cập, một nền văn hóa mới __ văn hóa Ai Cập được công nhận ngày nay __ phát triển từ tổ hợp các dân tộc, các nền văn hóa và ngôn ngữ  khác nhau này.


Hẹn hò với người xưa


Một trong những lãnh vực thuộc sử Ai Cập  gây bối rối nhiều nhất là cách tính niên đại đặc biệt cho các thời kỳ, thời trị vì, và ngay cả việc ghi lại ngày tháng những trận đánh và lễ lạc. Hơn nữa, một lịch sử kéo dài hơn 3,000 năm chứa nhiều điều làm đầu bạn rối tung.


Vấn đề càng khó hơn khi chính người Ai Cập không có hệ thống tính niên lịch tập trung như chúng ta ngày này (chẳng hạn, B. C. và AD). Thay vào đó, họ qui chiếu niên đại theo những năm trị vì của ông vua đương thời. Ví dụ năm thứ 5 thời Ramses II hoặc năm thứ 16 thời Akhenaten.


Hệ thống này chắc chắn hiệu quả đối với thời cổ, nhưng nó không hữu ích với các nhà Ai Cập học nhiều __ nhất là khi một số đời vua không được ghi lại hoặc thời gian trị vì chính xác không được đảm bảo. Vì thế, ví dụ, định niên đại từ năm 4 đời vua Ramses đến năm 2 đời vua Merenptah là điều hoàn toàn có nghĩa đối với người dân Ai Cập, nhưng nếu bạn không biết Ramses II trị vì bao lâu và bạn không biết liệu giữa hai vị vua này có ông vua nào khác nữa. 

Mathetho đến giải cứu


Các nhà Ai Cập học hiện đại không chỉ là những người duy nhất nghĩ rằng hệ thống niên lịch của Ai Cập rắc rối. Manetho, một sử gia và pháp sư Ai Cập từ thể kỷ thứ ba B. C., đã sáng chế ra hệ thống niên lịch vương triều mà đến này vẫn còn được sử dụng.


Theo hệ thống này, sự thay đổi triều đại được đề cập bất kỳ khi nào có sự thay đổi triều đại trong hoàng tộc, địa lý,  hoặc bất kỳ giải pháp liên tục nào trong việc tiếp nối trị vì của các vua. Manetho chia các đời vua Ai Cập thành 31 triều đại, rồi được chia nhỏ thành ba vương quốc chính với những thời kỳ ‘trung gian’ giữa chúng.


  • Thời kỳ triều đại đầu: Triều đại 0-2, khoảng 3150-2686 BC
  • Vương quốc cổ: Các triều đại thứ 3 đến thứ 6, khoảng 2686-2181 BC.
  • Thời kỳ trung gian thứ nhất: Các triều đại thứ 7 đến thứ 10, khoảng 2181-2040 BC.
  • Trung Vương quốc: Các triều đại thứ 11 đến thứ 12, khoảng 2040-1782 BC.
  • Thời kỳ trung gian thứ hai: Các triều đại thứ 13 đến 17, khoảng 1782-1570 BC.
  • Tân Vương quốc: Các triều đại thứ 18 đến 20, khoảng 1570-1070 BC
  • Thời kỳ trung gian thứ ba: Các triều đại thứ 21 đến 26, khoảng 1080-525 BC
  • Thời ký cuối cùng: Các triều đại thứ 27 đến 30, khoảng 525-332 BC

Hệ thống niên lịch này đã tỏ ra rất hữu dụng, và các nhà Ai Cập học nhờ đó có thể bổ sung các niên lịch theo thứ tự thời gian cho các triều đại. Tuy nhiên các niên lịch này không khớp nhau trong các sách sử, và sự khập khiễng này khiến các độc giả rất lúng túng. Vì lý lẽ này, tham chiếu các triều đại hơn là niên lịch thường dễ hiểu hơn. Các niên lịch tôi dùng trong sách này dựa trên Biên Niên Sử các Pha-ra-ông của Peter Clayton, bảng niên đại được phổ biến rộng rãi.


Thống Nhất Hai Vùng Đất


Mặc dù có chệch choạc về hệ thống niên lịch, các người cổ Ai Cập là một nền văn minh rất có tổ chức. Điều này đặc biệt hiển nhiên trong sự phân chia xứ sở của họ. Sự phân chia quan trọng nhất về mặt chính trị là sự phân chia nam-bắc. Sự phân chia này, chia Ai Cập thành Thượng Ai Cập (phía nam) và Hạ Ai Cập (phía bắc) được biết đến như Hai Vùng Đất __ một khái niệm lấn át ý thức hệ vương quyền từ thời cai trị của vị vua đầu tiên, Narmer (3100 BC), đến những ngày cuối cùng của Cleopatra VII (30 BC).


Thạch bản Narmer, một bản đá cao khoảng 64 cm, cho thấy Narmer thống nhất đất nước __ một trận chiến được ghi lại sớm nhất trong lịch sử Ai Cập. Nó mô tả Narmer chinh phục Hạ Ai Cập để trở thành vua của Hai Vùng Đất.


Từ thời này trở đi, bất kỳ vị vua nào cần cai trị cả Thượng và Hạ Ai Cập mới có thể được công nhận là vị vua thực sự của Ai Cập. Những người Ai Cập xem quan niệm này như là một phần nền tảng của vương quyền mà họ kết hợp danh hiệu ‘vua Thượng và Hạ Ai Cập’ thành hai trong năm danh hiệu truyền thống mà vua nhận được tại lễ đăng quang của mình.


Những tên hiệu này mô tả một vài yếu tố trong thời trị vì của nhà vua. Thứ tự truyền thống của những tên này là:

 

  • Tên thần Horus
  • Dưới sự bảo hộ của nữ thần diều hâu của Thượng Ai Cập và nữ thần hổ mang của Hạ Ai Cập.
  • Tên thần Golden Horus
  • Dưới sự bảo hộ của cây lách của vùng Thượng Ai Cập và con ong của vùng Hạ Ai Cập.
  • Con trai của thần Ra

Biểu Thị Hai Vùng Đất


Ngoài các vương hiệu, một số biểu tượng và chữ tượng hình trong ghi chép của sử Ai Cập còn đề cao tầm quan trọng trong sự thống nhất của Hai Vùng Đất. Những hình tượng quan trọng trong y phục vua chúa gồm có:



  • Vương miện trắng của Thượng Ai Cập
  • Vương miện đỏ của Hạ Ai Cập
  • Vương miện kép của Thượng và Hạ Ai Cập
  • Cây lách của Thượng Ai Cập
  • Con ong của Hạ Ai Cập
  • Nekhbet nữ thần diều hâu của Thượng Ai Cập
  • Wadjet nữ thần rắn hổ mang của Hạ Ai Cập

Thêm vào đó, những hình ảnh sau đây thường xuất hiện trong kiến trúc, nhất là trên các cột đá và trang trí đền thờ (xem Chương 12). Mặc dù những hình ảnh này không biểu thị vương quyền, chúng thường xác định vùng cai trị của một vị vua đặc biệt nào đó, hoặc, nếu cả hai được trình bày, chúng xác định sự thống nhất.

  • Cây papyrus của Hạ Ai Cập
  • Cây sen của Thượng Ai Cập
  • Sen và papyrus được kết quanh biểu tượng ‘tim và phổi’ của Ai Cập, chỉ một Ai Cập thống nhất

Thống nhất đông và tây


Mặc dù sự phân chia Thượng và Hạ Ai Cập là việc quan trọng nhất (ít nhất đối với các triều vua), Ai Cập còn phân chia đông và tây. Sông Nile tạo thành đường ranh giới của hai miền đông và tây.

Bờ đông sông Nile được dùng chủ yếu cho việc thờ phượng các thần linh (xem Chương 12) và xây dựng các nơi định cư. Người cổ Ai Cập xem bờ đông là Vùng Đất của người Sống vì mặt trời mọc ở phương đông mỗi buổi sáng, đem lại hy vọng và mang đến một cuộc sống mới.
Bờ tây sông Nile là nơi dành cho các nghĩa địa và các đền thờ dành cho việc an táng, được coi là Vùng Đất của người Chết. Tây là nơi mặt trời lặn khi chiều tới, bắt đầu một cuộc du hành đêm vào vùng đất của kiếp sau cho đến khi được tái sinh ở phương đông.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Một số khu định cư được xây dựng ở bờ tây, trong khi một số nghĩa địa xuất hiện ở bờ đông.

Phân chia nhỏ hơn


Nếu sự phân chia Thượng/Hạ và đông/tây không đủ, toàn thể Ai Cập được phân ra thành 42 trấn, cho đến hiện giờ vẫn được duy trì, được gọi là nome. Ở Thượng Ai Cập, 22 tỉnh tồn tại ngay từ ngày đầu của thời kỳ vương triều; 20 trấn ở Hạ Ai Cập phát triển về sau này.

Mỗi trấn được một tổng trấn cai trị, vị này phải theo lệnh của tể tướng và cuối cùng lên đến nhà vua. Lý tưởng thì chỉ có một vị tể tướng điều hành nhà nước, nhưng nhiều ông vua phân chia vai trò tể tướng ra hai __ một tể tướng cho Thượng Ai Cập và một cho Hạ Ai Cập. Mỗi trấn có một thành phố và một đền thờ dành thờ phượng vị thần sở tại, đầy đủ các giới luật tôn giáo, các thực hành cúng bái, và tố chức lễ lạc.

Mỗi trấn được đại diện bởi lá cờ nghi thức, gồm một quyền trượng mang một biểu tượng của vị thần sở tại và một linh vật hoặc cây cỏ biểu tượng của vùng ấy. Các linh vật hoặc cây cỏ biểu tượng thường được trưng diễn trong các buổi lễ cúng tế, trong đó đặc biệt làm nổi bật cây trái mà vùng miền đó chuyên canh. Các trấn thường lấy tên mình dựa vào linh vật hoặc cây trái này, như trấn cò quắm và trấn thỏ rừng.

Đi Theo Kinh Thành Trôi Nổi


Mặc dù người Ai Cập rất có óc tổ chức với một định chế phân cấp nhà nước rất ổn định, họ không quá nghiêm nhặt về vị trí của kinh thành của mình. Thật vậy, các nhà Ai Cập học đã nhận diện được nhiều di tích kinh thành và lăng mộ hoàng gia trên khắp đất nước Ai Cập, cho thấy rằng kinh thành di dời tùy theo ngẫu hứng của các vì vua trị vì. Trong một số triều đại, các nhà cai trị có đến hai kinh đô: một kinh đô tôn giáo và một kinh đô hành chính.

Các kinh thành thời kỳ tiền vương triều

Văn minh Ai Cập không phát triển trong thời kỳ trước khi có vương triều (trước 3100 BC), do đó một kinh thành đúng nghĩa không tồn tại. Thay vào đó, có ba địa điểm chứa các khu định cư và nghĩa địa rộng lớn hình như nổi trội hơn cả:

Naqada là một trong những địa điểm tiền vương triều lớn nhất, tọa lạc trên bờ tây của sông Nile khoảng 26 km bắc Luxor. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hai nghĩa địa lớn với hơn 2,000 mộ, một số thuộc về nhà quyền thế và hoàng tộc.
Hierakonpolis cũng được sử dụng làm nghĩa địa cho hoàng gia và là nơi tiến hành nghi thức an táng của vua Khasekhemwy thuộc vương triều thứ hai. Di chỉ nổi tiếng nhất là được tìm thấy từ địa điểm này là Thạch Bản Narmer (xem mục ‘Thống Nhất Hai Vùng Đất’ ở phần trước chương này), Đầu Trượng Narmer và Đầu Trượng Bò Cạp. Hai vật sau cùng này được trưng bày tại Bảo Tàng Ashmolean, Oxford, và mô tả sự phát triển sớm sủa của ý thực hệ vương quyền của Ai Cập.
Abydos là địa điểm chính yếu trong thời kỳ tiền vương triều và vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong suốt thời kỳ Pha-ra-ông. Khu định cư lâu đời nhất ở đây có niên đại 4000-3500 BC, mặc dù hầu hết những di vật hiện thời đều từ các triều đại thứ 19 và 20. Abydos là trung tâm tôn giáo chủ yếu với lăng tẩm của tất cả các vì vua thuộc triều đại thứ nhất và thứ hai.
Di Dời về Memphis

Ba trung tâm thời tiền-vương triều không được coi là kinh thành trong Vương Quốc Cổ (khoảng 2686-2333 BC), và Memphis, gần Cairo ngày nay, trở thành kinh đô hành chính mới. Vị trí của Memphis thuận lợi cho việc thông thương và kiểm soát cả hai vùng Châu thổ và thung lũng sông Nile, bảo đảm công việc buôn bán qua vùng này chịu sự kiểm soát nghiêm nhặt của nhà vua.

Các nghĩa địa hoàng tộc trong Vương quốc Cổ cũng rất gần với Memphis, với cánh đồng kim tự tháp ở Giza, Saqqara, Dashur, Abusir, và Abu-Roash (xem Chương 14) bao phủ một vùng rộng lớn xấp xỉ 35 cây số vuông.

Memphis cũng duy trì tầm quan trọng của nó trong suốt thời Tân Vương quốc. Trong thời trị vì của Sety I (1291-1278 BC) và Ramses II (1279-1212 BC), hậu cung (xem Chương 5) tọa lạc tại Memphis, cho thấy nó vẫn tiếp tục là nơi cư trú của hoàn g gia.

Định Cư tại Thebes


Trong thời Tân Vương quốc, kinh đô tôn giáo và hoàng gia chính yếu là Thebes (ngày nay là Luxor), là quê hương của thần Amun hùng mạnh. Tôn giáo này bao gồm các đền thờ ở Karnak và Luxor, cũng như các đền thờ an táng thời Tân Vương quốc và nơi chôn cất hoàng tộc trong Thung Lũng các Vì Vua và Hòang hậu (xem Chương 13).

Trong phần lớn thời gian Tân Vương quốc, Thebes là kinh đô tôn giáo và Memphis ở miền bắc là kinh đô hành chính, nhằm bảo đảm tầm kiểm soát của nhà vua trên cả Thượng và Hạ Ai Cập.

Các khu định cư ngắn hạn khác


Mặc dù Memphis và Thebes là những khu định cư quan trọng trong suốt thời kỳ pha-ra-ông, một số nhà cai trị cũng chọn kinh đô ở những nơi khác.

Avaris: Các nhà cai trị Hyksos của thời kỳ trung gian thứ hai (1663-1555 BC) xây dựng kinh đô của mình ở vùng Châu thổ. Vùng định cư cho thấy sự tiếp cận giữa hai nền văn hóa: văn hóa Ai Cập và văn hóa Palestine (Palestine là nơi người ta cho là nơi xuất xứ của người Kyksos). Muốn biết thêm chi tiết, xem Chương 3.
Amarna: Đây là kinh đô mới do Akhenaten của triều đại 18 xây dựng (1350-1334 BC) và dâng cúng cho mặt trời, thần Aten. (Quay sang chương 4 để biết thêm thời kỳ này của lịch sử Ai Cập.) Amarna tọa lạc khoảng giữa đường từ Memphis tới Thebes ở Trung Ai Cập và gồm một số đền thờ, cung điện, và khu định cư mở rộng, và một nghĩa địa.
Pi-Ramese: Thành phố này ở Châu thổ, rất gần với Avaris, được xây dựng đầu tiên bởi Sety I (1291-1278 BC) như một thành phố cảng và nơi kiểm soát đường vận tải hàng hóa quan trọng từ Địa Trung Hải vào thung lũng sông Nile. Ramses II của triều đại 19 (1279-1212 BC) mở rộng thành phố thêm nhiều và đặt tên là Pi-Ramses xem như cạnh tranh với Thebes.
Tanis: Đây là một kinh đô khác trong vùng Châu thổ trong triều đại 21 dưới triều vua Psusennes I (1039-991 BC). Phần lớn thành phố được xây dựng bằng khối đá cũ từ kinh thành Pi-Ramses.
Những thành phố này đều có tuổi thọ ngắn ngủi. Ở cuối thời trị vì của các vua tầm quan trọng của những địa điểm này giảm đi, và Thebes cùng Memphis được tái lập làm kinh đô.

Cư Trú tại Thung Lũng Sông Nile


Từ khoảng 5000 BC, các cộng đồng định cư sinh sống tại thung lũng sông Nile trong một diện tích xấp xỉ 34,000 cây số vuông. Tuy nhiên, dân số thực sự của vùng này chưa bao giờ được thống kê cho đến khi La mã đô hộ Ai Cập vào năm 30 BC.

Các nhà Ai Cập học đã ước tính dân số dựa trên diện tích đất canh tác được và số dân mà nó có thể nuôi sống:

Thời kỳ cuối tiền-vương triều: 100,000-200,000 người
Thời kỳ triều đại đầu: 2 triệu người
Vương quốc Cổ: 1-1.5 triệu người
Tân Vương quốc: 2.9-4.5 triệu người
Thời kỳ Ptolemy: 7-7.5 triệu người
   Dân số dao động trong suốt thời kỳ pha-ra-ông, có gia tăng đáng kể trong thời Ptolemy do La mã đô hộ nhờ diện tích đất canh tác gia tăng, cộng thêm số dân ngoại quốc nhập cư vào Ai Cập sau thời vua Alexander the Great (xem Chương 6).

Bước Lên Nấc Thang Xã Hội Ai Cập


Xã hội Ai Cập được phân tầng triệt để. Tuy nhiên, hầu hết chứng cứ còn sử dụng được đến ngày nay chỉ lấy từ các tầng lớp trên của xã hội – hoàng tộc và nhóm ưu tú- vì những người này có tiền của để lưu lại các đài tưởng niệm và lăng mộ bằng đá bề thế cho đời sau.

Cấu trúc xã hội của Cổ Ai Cập từ thời Vương quốc Cổ trở đi có dạng kim tự tháp (thật thích hợp làm sao!). Vua ngự trên đỉnh cao, theo sau là nhóm nhỏ các tăng lữ tuyển ra từ các thành phần ưu tú, rồi một nhóm đông hơn các người ưu tú cầm quyền, và rồi đến tầng lớp lao động (bao gồm các nhà buôn lành nghề và các thợ không chuyên), cấu tạo thành phần còn lại của dân số.

Hiển nhiên, đa phần dân số thuộc tầng lớp lao động. Họ có bổn phận làm việc trên đồng ruộng và sản xuất lương thực cho tầng lớp ưu tú và các tăng lữ. Khổ thay, các nhà Ai Cập học không biết được số chính xác các người ưu tú __ và rất ít thông tin về giai cấp lao động Ai Cập  được ghi chép lại.

Những đề mục sau bàn về những trải nghiệm cá nhân ở mỗi bậc thang trong kim tự tháp xã hội của Cổ Ai Cập.

Là vua của đám đông


Người có quyền lực nhất trong xã hội cổ Ai Cập là vua. Ông sinh ra đã là vua, và lý tưởng nhất khi ông là con trai của vua đời trước __ mặc dù trong một số trường hợp ông vua mới là người tiếm ngôi từ người thừa kế hợp pháp.

Là người đứng đầu vương quốc, vua có một số chức trách và vai trò cần chu toàn, bao gồm:

  • Quốc sư của tất cả đền thờ trên đất nước
  • Tổng tư lệnh quân đội (nhất là trong thời kỳ Tân Vương quốc)
  • Trưởng ngoại giao trong các hiệp ước thương mại và hòa bình
  • Trung gian giữa nhân dân và các thần linh
  • Vua được coi là hiện thân của thần Horus trên mặt đất __ và do đó là một vị thần đầy quyền lực. Địa vị thần thánh này có nghĩa là ông ta có thể giao tiếp trực tiếp với các vị thần linh vì lợi ích của nhân dân Ai Cập. Làm toại nguyện các thần linh cũng là trách vụ của ông ta. Nếu Ai Cập bị bệnh dịch, đói kém, lũ lụt, hoặc chiến tranh hoành hành, người Ai Cập tin rằng nhà vua đang bị thần linh trừng phạt và không làm cho dân chúng hạnh phúc là lỗi của ông ta. Thật có quá nhiều áp lực cho một người!

Phục vụ thần linh


Giai cấp tăng lữ Ai Cập rất có thế lực, nhất là người có vai vế bên trên (xem Chương 2 để biết thêm chi tiết). Các thầy tư tế làm việc cho đền thờ và có thể gặt hái được danh vọng, tài sản, và tước vị.

Các thầy tư tế có đủ đặc quyền thay thế sự hiện diện của thần linh mỗi ngày, và nhiều người dân phải dâng lễ vật cho họ (một số cho rằng hối lộ) để nhờ nói vài lời tốt đẹp với thần linh hoặc cầu xin được ban phúc. Ngay cả nhà vua cũng không miễn nhiểm với thói quà cáp này, thường phong đất, tước vị, và phần thưởng cho các thầy tế. Những quà cáp này sau đó sẽ giúp các thầy trưởng tế trở nên giàu sụ. Và đi kèm với giàu có là quyền lực. Ví dụ:

Giới tăng lữ phục vụ thần Amun ở Karnak là những người giàu có nhất và quyền lực nhất Ai Cập. Trong thời Ramses III trị vì, giới này sở hữu 1,448 cây số vuông đất canh tác, vườn nho, bến cảng, và hầm mỏ, cùng với giang thuyền và tàu đi biển. Hầu hết đất canh tác này cho nông dân thuê lại với số tô bằng một phần ba sản lượng họ thu hoạch.
Lợi tức hàng ngày của đền thờ an táng của Ramses III ở Medinet Habu từ đất được phong cho đền là 2,222 ổ bánh mì, 154 vại bia, 8,000 lít thóc, ngoài ra còn có thịt và những sản phẩm khác __ số lượng đủ nuôi sống 600 gia đình.
Trong suốt lịch sử Ai Cập, các vì vua đều cảm thấy rằng vỗ về giới tăng lữ là cần thiết vì họ làm việc vì lợi lạc của nhà vua, giữ cho thần linh được mãn nguyện và giữ yên ổn cho Ai Cập. Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi quà cáp nhà vua cứ tăng dần thì quyền lực của giới tăng lữ cũng lớn mạnh theo, cho đến mức tranh chấp với quyền lực của nhà vua.    

       

Tăng quyền lực cho tầng lớp ưu tú


Để giảm bớt áp lực cho mình, nhà vua có nhiều cố vấn và quan chức giúp đỡ lựa chọn những quyết định và hành động. Các con trai của hoàng tộc không thừa kế ngai vàng sẽ được nhà vua bổ nhiệm nhiều vị trí cao trong chính quyền.

Vai trò dễ dàng nhất để giao phó là vai trò của các pháp sư cấp cao. Hiển nhiên vua không thể gánh vác tất cả nghi lễ được kỳ vọng như là một quốc sư trong mỗi đền thờ ở Ai Cập. Cho dù vua là một thần linh, ông ta cũng không phải là Siêu nhân!

Các tổng trấn, hãy  sẵn sàng


Trong thời kỳ Vương quốc Cổ và Trung, nhiều quyền lực của nhà vua được phân bổ cho các tổng trấn, hoặc thị trưởng. Họ điều hành trấn (hoặc tỉnh lỵ) của mình, và kiểm soát kinh tế, thuế má, và sử dụng nhân lực địa phương. Các tổng trấn tối hậu trông chờ vào sự rộng lượng của nhà vua và phải báo cáo và nộp ngân sách thường kỳ lên nhà vua vì quyền lợi của trấn mình.

Tuy nhiên, nhà vua cũng nhờ vả vào những trưởng trấn này, nhất là trong thời chiến hoặc mỗi lần viễn chinh. Trước thời Tân Vương quốc đã bắt đầu có dân quân toàn thời gian (xem Chương 4), các tổng trấn có trách nhiệm tuyển mộ lính và huấn luyện các thanh niên cường tráng lấy từ trấn của họ để chiến đấu cho Ai Cập hoặc để đồng hành cùng nhà vua khi xuất chinh, hoặc để giao thương hoặc để khai mỏ.

Do đó nhà vua phải tranh thủ các tổng trấn đứng về phía mình bằng những lương bổng và quà cáp. Nếu không, các thanh niên cường tráng này có thể được tuyển mộ làm chiến binh chống lại nhà vua và có nguy cơ tiếm lấy ngôi vàng.     

Quân đội chính qui của Ai Cập


Trong thời Tân Vương quốc, vua không phải dựa quá nhiều vào các tổng trấn để bổ sung người cho chiến trường hay thương trường, vì Ai Cập có một đội quân thường trực sẵn sàng nhận lệnh từ nhà vua.

Hai vị tướng cầm đầu quân đội Tân Vương quốc __ một tướng ở vùng Thượng Ai Cập và một tướng ở vùng Hạ Ai Cập. Sự phân quyền khéo léo này của nhà vua nhằm giới hạn quyền lực vị tướng và đề phòng một cuộc đảo chính của quân đội nhằm lật đổ ngai vàng.

Nhiều vị tướng trong quân đội của Tân Vương quốc là các ông hoàng. Một số được phong tước vị khi còn là trẻ con, cho thấy đây chỉ là một tước vị danh dự cho phép đứa trẻ được  làm việc gì đó __ như chơi kiếm hoặc cởi xe ngựa __ cũng như giữ những vị trí có quyền hạn như thế bên trong hoàng gia  

Tể tướng lên chức


Trách nhiệm của tể tướng rất đa dạng và khiến ông ta trở thành người có quyền lực chỉ đứng sau nhà vua ở Ai Cập.

Tể tướng cơ bản là người phụ tá riêng và thư ký  cho nhà vua và soạn thảo các báo cáo hàng tuần hoặc hàng tháng về mọi vấn đề trọng yếu của toàn Ai Cập, dựa trên báo cáo hằng ngày do các viên chức thừa hành gởi lên. Đôi khi, tể tướng được nhà vua ủy quyền, phân bổ đất đai và chiến lợi phẩm cho các tổng trấn như là phần thưởng cho lòng trung thành.

Ngoài ra, tể tướng có trách vụ tuyển mộ cảnh sát và nhận báo cáo từ các đồn cảnh vệ phòng trên khắp Ai Cập về những cuộc chuyển quân của kẻ thù hoặc những hành động gây mất an ninh. Tể tướng củng chủ trì triều đình, giải quyết những thỉnh nguyện hằng ngày của dân chúng, bao gồm các tội hình sự và những vi phạm nhỏ.

Cầu cho tư tế hộ trì


Cuộc tranh chấp quyền lực nổi cộm nhất trong lịch sử cổ Ai Cập xảy ra trong thời trị vì của Ramses XI giữa hoàng gia và những trưởng tế thần Amun. Lúc này, quyền lực của nhà vua xuống rất thấp đến nổi nội chiến bùng nổ để xác định ai là người chiếm lấy ngai vàng của Ramses XI __ trong khi nhà vua còn đang tại vị.

Trong suốt 12 năm đầu trị vì của Ramses XI, các trưởng tế của Amun thực sự nắm lấy quyền bính ngang ngửa với Ramses và được sự đồng thuận của nhà vua vì ông là vị quân vương rất mộ đạo. Tuy nhiên, điều khác biệt giữa các trưởng tế và Ramses XI là nhà vua có lực lượng dân quân dưới quyền mình, nên có lợi thế hơn.

Tuy nhiên, tại một thới điểm trước năm 12, một trong những quan hành chính của Ramses __ Panehsy, Phó vương của Nubia, đặt căn cứ ở Thebes __ gặp xung đột với trưởng tế thần Amun, Amenhotep. Cuộc xung đột này đã tước Amenhotep khỏi vị trí của y trong chín tháng, cho đến cuối cùng y quay sang cầu cứu Ramses. Ramses truyền lệnh cho quân đội tận diệt Panehsy, khiến ông này bị đuổi về Nubia, và Amenhotep chiếm lại chức vị của mình.

Vài năm sau, Amehotep được Herihor thay thế, và nhà vua cũng phong y những chức vị quân sự mà Panehsy từng nắm giữ. Lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, một người đồng thời  nắm giữ chức vị tôn giáo và quân sự cao cấp nhất, khiến y trở thành người có quyền lực vượt xa Ramses. Ramses giờ đang trong vị thế yếu và chỉ làm vua trong danh nghĩa, trong khi thực chất Herihor toàn quyền cai trị Ai Cập. Herihor chứng tỏ vị thế tuyệt đỉnh của mình bằng cách khắc tên và tước vị quốc sư trên ấn theo kiểu  chỉ dành cho vua.

Sau khi Herihor mất, vị trí của ông được chuyển giao cho con rễ Piankhy, cai trị song hành với Ramses theo đúng kiểu của cha vợ. Khi Ramses băng hà, Piankhy tiếp tục trị vì Thebes, trong khi Hạ Ai Cập thì do vua Smendes từ Tanis, người có quyền hợp pháp ngôi vua vì đã cưới con gái của Ramses, cai trị.  

Sự kiện này khởi đầu một thời kỳ cai trị phân đôi và một triều đại (thứ 21) của các quốc sư Thebes, tất cả đều là kế nghiệp của Piankhy, vừa đứng đầu tôn giáo và quân đội. Việc này là để chứng minh với bạn là đừng bao giờ cho tất cả quả trứng của mình vào cùng một cái giỏ.

Chuyển giao quyền lực


Mặc dù nhà vua đứng đầu toàn xứ Ai Cập, đôi lúc những vị quan thấp hơn, như tể tướng, quân đội, hoặc thầy tế có quyền lực vượt xa ông. Một ví dụ rõ ràng là  Ramses XI của triều đại 20, người kế vị ngai vàng là quốc sư của Amun. Thật ra, trong suốt thời trị vì của Ramses XI, các quốc sư nắm quyền lực bằng hoặc hơn ông.

Chức vị tể tướng thường được dùng như một bước đệm để tiến tới vai trò làm vua, như Ay ở triều đại 18 trở thành vua, và Bay ở triều đại 19 nắm quyền đằng sau vị vua bù nhìn Siptah.  Thật ra, triều đại 19 bắt đầu chuyển giao quyền lực giữa hoàng gia (kết thúc với Ay, chú của Tutankhamun) và quân đội (với Horemheb, một vị tướng lên chiếm lấy ngai vàng). Horemheb sau đó giao ngai vàng cho một vị tướng của mình, Ramses I, và bắt đầu một kỷ nguyên quân sự mới ở Ai Cập.

Những quan chức thấp hơn tích lũy của cải __ và do đó quyền lực __ cho đến khi họ lấn át nhà vua. Dĩ nhiên, những của cải này đầu tiên đến từ nhà vua dưới hình thức chức vị, đất đai, và quà biếu. Như thế tại một thời điểm nào đó nhà vua đã vung tay quá mức. Sự mất cân bằng về của cải được phơi bày rõ ràng ở những lăng mộ vào cuối thời kỳ Vương quốc Cổ. Lăng mộ của các quan chức này được khắc tinh xảo trong đá và trang trí mắc tiền, trong khi kim tự tháp  hoàng gia thì nhỏ và xây dựng bằng đá vụn sa mạc.

Ngay cả các sử gia cũng gặp khó khăn khi xác định hoặc một triều đại mới bắt đầu bằng việc cướp ngôi của một quan chức giàu có hoặc bởi một sự thay đổi tự nhiên khi nhà vua không có con trai thừa kế.

Trong những thời kỳ bất ổn chính trị, khi ngai vàng không theo thể thức cha truyền con nối, toàn bộ xứ Ai Cập bị ảnh hưởng, nhất là nền kinh tế. Bất kỳ sự giành giựt ngai vàng nào cũng đưa đến sự buông lõng ngoại thương, cũng như chi phí quân sự gia tăng, làm nảy sinh những vấn đề kinh tế trầm trọng, như sự phân phối lương thực và sự cắt giảm những dự án xây dựng lăng mộ (nhất là trong triều đại 21 và về sau).

Một vấn đề xảy ra vào năm 29 của thời Ramses III trị vì. Các nhân công ở Deir el Medina không được trả lương sáu tháng và mở cuộc đình công, biểu tình trước các đền thờ an táng của Thutmosis III, Ramses II, và Sety I, nơi cất giữ thóc gạo dùng để trả lương. Cuộc đình công có kết quả, và họ được trả công. Nhưng cuối năm đó khi việc trả công lại bị đình trệ, Djhutymose, một người viết thuê từ Deir el Medina, cho rằng đình công sẽ không hiệu quả như ban đầu vẫn nghĩ, nên đi cùng hai viên chấp pháp để tự mình trưng thu thóc gạo từ những nông dân địa phương và các đền thờ.

Tầng lớp lao động rộng lớn: Sản xuất ra của cải


Mặc dù các quan chức và quân đội là thiết yếu để giữ an ninh và ổn định cho Ai Cập, nhưng tầng lớp lao động mới là lực lượng nòng cốt cho các thành tựu của xứ sở. Rủi thay, hầu hết các thông tin về tầng lớp này đã bị lạc mất. Vì phần lớn họ đều nghèo và thường là dốt nát, nên giai cấp lao động Ai Cập không để lại các mộ đá, bia tưởng niệm nào. (Chương 2 sẽ ráp lại chân dung của những cá nhân thuộc tầng lớp này.)

Nông dân: Muối của đất         


Đa số tầng lớp lao động là người làm nông, vì làm ruộng và sản xuất lương thực là thiết yếu cho sự sống còn và cho Ai Cập tham gia vào thương mại.

Trong khi không có chứng cứ chữ viết nào tồn tại từ chính những nông dân, một số lăng mộ của các thành viên ưu tú có đề cập đến nông dân làm lụng trên đất của họ, do đó có lưu lại tên những nông dân này cho mai sau. Một nông dân như thế làm việc cho người thư lại Ramose từ Deir el Medina. Theo bia mô ghi lại, tên người nông dân này là Ptahsaankh, và y cày bừa mảnh đất ruộng với hai con bò gọi là ‘Tây’ và ‘Lũ Đẹp’.

Phần lớn đất đai thuộc sở hữu nhà nước hoặc đền thờ và chỉ cho người nông dân thuê lại. Là người làm công cho nhà nước, người nông dân được trông chờ sẽ nộp đủ số thu hoạch cho chủ đất, ngoài ra còn có phần thuê và thuế (thuế thì luôn luôn phải có). Thu hoạch của nông dân là những gì còn sót lại. Người nghèo rõ ràng là làm việc không công.

 

Người lao động: Phục vụ nhà nước


Trong mùa lũ hàng năm của sông Nile, hàng ngàn nông dân thật sự thất nghiệp vì họ không thể làm gì nhiều khi đất đai nằm sâu dưới ba bộ nước. Vào thời gian này, nhà nước thường tuyển mộ những nông dân làm lao động trên những dự án xây dựng đài tưởng niệm lớn, như kim tự tháp.

Các nhà bình luận thường cho rằng việc xây các đài tưởng niệm là do các nô lệ, nhưng thật ra thực tế là không phải vậy. Trong khi làm việc cho nhà nước, những lao động không lành nghề này được trả công hậu và được cung cấp chỗ ở gần địa điểm xây dựng. Khi lũ bắt đầu rút vào tháng 10, các công nhân quay trở về làng mình để cày cấy trên đồng ruộng.

Lao động tay chân nặng nhọc, như làm việc trong hầm đá hay hầm mỏ, là do các tù binh hoặc bọn tội phạm. Vì công việc này được coi như một phần trừng phạt, nên họ chỉ được cho ăn uống, nhưng không được cung cấp thêm lương thực để buôn bán. Trong khi công việc của họ là nguy hiểm, nhiều người trong số họ, nếu đào thoát, chắc chắn sẽ gục chết vì phải lê bước qua sa mạc nóng cháy, khát nước, hoặc gặp các bộ lạc du mục.

Thợ thủ công: Đẽo cho đẹp


Chứng cứ tồn tại duy nhất liên quan đến thợ thủ công đến từ những khu định cư đặc biệt dành cho lực lượng lao động đặc biệt, bao gồm

Giza, xây cất cho các công nhân xây dựng các kim tự tháp Giza
Kahun, nơi ở của các công nhân xây dựng kim tự tháp Lahun
Amarna, nơi ở của các công nhân xây dựng các lăng mộ hoàng gia Amarna
Deir el Medina, nơi ở của các công nhân xây dựng Thung Lũng các Vì Vua
Các ngôi làng của công nhân ở Amarna và Deir el Medina (nơi xuất phát hầu hết những thông tin về thợ thủ công và thường dân Ai Cập) cung cấp chỗ ở cho những công nhân có đặc quyền làm việc trực tiếp cho nhà vua. Họ không phải thuộc tầng lớp lao động bình thường.

Mặc dù các thông tin từ Amarna và Deir el Medina có giá trị và thú vị (đến Chương 2 để tìm xem thú vị cỡ nào), nó chỉ mô tả trải nghiệm của các công nhân ưu tú __ không phải là thành viên bình thường, vô học của xã hội. Chắc chắn là nhiều thợ thủ công làm việc trên khắp xứ Ai Cập cho những dự án không phải của hoàng tộc, nhưng buồn thay những thông tin về họ không tồn tại.

Charlotte Booth

Trần Quang Nghĩa dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét