Mọi nhà ở Cổ Ai Cập hầu như chật nứt người ở. Các biệt thự được điều hành như những điền trang. Để phụ giúp người chủ và gia quyến của y, một số đông người giúp việc, quản gia, và tôi tớ cùng chung sống trong những ngôi nhà lớn hơn này.
Những ngôi nhà nhỏ lại càng đông đúc hơn. Một cặp vợ chồng Ai Cập có khi có đến 15 người con, tất cả đều chung sống trong một ngôi nhà bốn phòng. Khi một người trưởng thành lập gia đình, vợ của y sẽ chuyển đến chung sống trong ngôi nhà đó; và khi các bà vợ sinh con cái, chúng cũng sẽ sống trong ngôi nhà đó. Không có gì bất thường khi một ngôi nhà nhỏ có đến ba hay bốn thế hệ chung sống __ có khi đến 20 người, phần lớn là trẻ con. Những người Ai Cập thực sự hiểu được ý nghĩa của sự chung chạ và chen chúc.
Lớn Lên là Người Ai Cập
Sẵn sàng cho__ và đôi khi chọn __ một nghề nghiệp là phần chủ yếu của cuộc sống thời trẻ của hầu hết người Ai Cập, đặc biệt là các bé trai. Những mục sau đây xét đến sự dạy dỗ, nghề nghiệp, và điều kiện làm việc của số đông người cổ Ai Cập.
Giáo dục người trẻ
Ngày nay, những ký ức xa xôi nhất của hầu hết chúng ta là từ thời đi học, và trong thời cổ Ai Cập chắc chắn cũng không khác.
Mặc dù không phải mọi đứa trẻ đều có may mắn hưởng được một nền giáo dục chính thức, người con trưởng trong hầu hết gia đình đều đi theo bước chân cha mình khi chọn nghề, vì thế anh ta bắt đầu học theo nghề cha mình ngay khi vừa 5 tuổi (hoặc làm ruộng, điêu khắc, hoặc thư ký). Những người con trai khác cũng được dạy nghề; điều này thôi thúc một số gia đình ưu tú khá giả giáo dục các con họ.
Tan trường rồi
Trường theo bạn hiểu không tồn tại vào thời cổ Ai Cập, nhưng trong khi chờ đợi một thuật ngử tốt hơn tôi phải dùng thuật ngữ này. Các trường học Ai Cập không có những tòa nhà cao rộng, với các phòng học và sân chơi. Không có mùi phấn viết bảng và nhất định không có đồng phục.
Hoàng tộc và tầng lớp ưu tú được dạy dỗ trong các đền thờ hoặc trường trong các dinh cơ, do nhà nước điều hành và gồm có những thầy phụ đạo và một nhóm nhỏ các bé trai được tuyển chọn. Tài liệu ghi chép lại chỉ rằng những bé trai có năng khiếu đặc biệt được chấp nhận vào trường, dù cho chúng không xuất thân từ tầng lớp trên __ như vậy tầng lớp dưới ít nhất cũng có chút cơ hội.
Mặc dù cũng có một số bé gái được dạy dỗ, nhưng đó chỉ là những trường hợp đặc biệt. Nếu một bé gái được đi học, nó không thuộc định chế của nhà nước. Vì phụ nữ không thể nắm những vị trí hành chính, giáo dục các bé gái hình như là công việc dã tràng đối với nhiều người cổ Ai Cập. Một người Ai Cập tên là Ankhsheshonk đã bất tử hóa quan niệm này bằng phát biểu: ’Dạy một người phụ nữ như vác một bao cát đã rách đáy.’
Một số đền thờ và trường học chính thức dạy những nghề nghiệp đặc biệt và chỉ nhận những bé trai từ những gia đình có nghề nghiệp nào đó, như thư lại hoặc quan hành chính. Sau khi ra trường các bé sẽ được thuê làm tại những công sở trung ương.
Đối với những bé trai không được nhận vào các định chế giáo dục ưu tú, có thể vào học tại trường trên địa bàn. Các bé trai trong hầu hết làng mạc chỉ học những kỹ năng đọc viết cơ bản nếu cha chúng là những thư lại hay người viết thuê __ thường sẽ tiếp nối chỗ của cha chúng như một thư lại. Các thư lại ở làng cũng thường mở lớp dạy từng nhóm nhỏ các trẻ trong làng cách đọc và viết để kiếm thêm thu nhập.
Ngôi nhà của Cuộc sống
Mặc dù trường theo bạn hình dung bây giờ không tồn tại vào thời cổ Ai Cập, Ngôi nhà của Cuộc sống là một định chế cung cấp sự giáo dục và huấn nghiệp cho một số ít được tuyển chọn. Ngôi nhà của Cuộc sống gắn liền với hầu hết các đền thờ. Mỗi nhà cất giữ một số bản văn liên quan đến ngôi đền đó. Thuật ngữ thường được biên dịch là trường, đại học, thư viện, hoặc văn khố. Tuy nhiên, nó là một định chế kỳ lạ có những điểm giống với mọi thứ đó nhưng không giống hẳn một thứ nào.
Mặc dù bị chôn vùi vào bí mật, ta biết được những điều sau đây về định chế này:
- Ngôi Nhà của Cuộc Sống cất giữ một số bản văn, được sử dụng để huấn luyện các tu sĩ và những những người hành nghề y (xem thêm Chương 8). Được dạy dỗ ở đây là một đặc quyền lớn, chỉ dành cho số ít được tuyển chọn. Tuy nhiên, cách thức tuyển chọn thế nào thì vẫn còn chưa được biết.
- Các tu sĩ điều hành Ngôi Nhà của Cuộc Sống có trách nhiệm bảo tồn, sao chép, và cất giữ các bản văn. Bản văn được cất giữ tại đây nổi tiếng khắp thế giới. Sau này, các tác giả Hy lạp, La mã ca tụng sự minh triết được ghi lại trong những bản văn này. Người ta cho rằng bản văn bao gồm những kiến thức về y học, cây thuốc, địa lý, hình học, thiên văn học, và lịch sử các triều vua.
- Định chế không mở rộng cho công chúng. Lối vào cực kỳ hẹp càng làm gia tăng màn bí mật. Nhiều chuyện kể văn học đề cập đến các bản văn được cất giữ trong Ngôi Nhà của Cuộc Sống có chứa các thông tin dạy cách nói chuyện với thú vật, chim chóc, và cá, cũng như những bản văn làm người đọc có thể diện kiến thần mặt trời.
Giáo trình
Một số giáo án còn sót lại, kể cho chúng ta biết khá nhiều về nếp học tập hằng ngày mà các trẻ em nhận được. Một đứa trẻ Ai Cập điển hình sẽ bước vào trường vào tuổi lên 5 và bắt đầu học đọc, viết, và số học.
Ở Ai Cập, có hai hình thức chữ viết khác nhau tồn tại __ chữ tượng hình (xem Chương 11) và ký tự hieratic (dành cho thầy tu), một dạng tốc ký của chữ tượng hình. Các sinh viên học sử Ai Cập ngày nay thông thường sẽ học chữ tượng hình trước rồi sau đó sẽ học tiếp chữ hieratic, nhưng các người cổ Ai Cập học theo cách sau:
- Một thầy phụ đạo sẽ viết những thành ngữ và câu viết bằng chữ hieratic.
- Một học sinh sẽ học thuộc lòng các thành ngữ và câu viết này
- Học sinh sau đó sẽ viết những thành ngữ này vào một bảng gỗ theo lời đọc rồi sau đó bằng trí nhớ.
- Thầy sẽ sửa chữa các lỗi.
- Bảng được xóa sạch, và tiến trình lại bắt đầu.
Giáo trình nâng cao này kéo dài cho đến khi đứa trẻ được 9 tuổi, đó là lúc quyết định chọn nghề. Sau đó chúng sẽ được theo học nghề mình chọn, kéo dài khoảng mười năm. Các thợ học việc vừa làm vừa học bên cạnh các thợ chuyên môn, được trả công).
Người cổ Ai Cập có tục ngữ ‘Trẻ con nghe bằng lưng; nó chỉ vâng lời khi bị đánh’ cho thấy cách thức tiến hành giáo dục thời cổ Ai Cập.
Chọn nghề
Chọn nghề đối với một người trưởng thành ngày nay đã khó, huống hồ chọn lúc chỉ mới 9 tuổi hình như là điều không tưởng. (Lúc lên 9, tôi muốn làm hoàng tử __ và không có thứ giáo dục nào làm được điều đó!) Tuy nhiên, những đứa trẻ Ai Cập 9 tuổi đã phải ra quyết định hệ trọng này.
Trong Tân Vương quốc, nghề hành chính và quân sự cạnh tranh gay gắt khi săn tìm những ứng viên ưu tú nhất của Ai Cập. Đối với nhiều thanh niên, cuộc sống của người lính hình như hào nhoáng hơn bất kỳ lối sống nào. Các người lính được hứa hẹn vinh quang, các cuộc viễn chinh, và được nhà vua để ý đến, trong khi nghề hành chính thư lại cho ta kiến thức, của cải, và cuộc sống bình yên không vất vả.
Nhiều nghề nghiệp mở ra đối với các đứa trẻ Ai Cập. Một văn bản tuyệt vời có tên Trào Phúng về Nghề Nghiệp liệt kê nhiều nghề __ và những mặt trái của chúng. Như văn bản này cho biết, các nghề được chia thành bốn loại chính: tay chân, hành chính, tôn giáo, và quân sự.
Hiển nhiên một số người bị hạn chế bởi địa vị xã hội và của cải khi chọn nghề nghiệp. Nhưng không hề gì, nạn thất nghiệp không tồn tại vì làm ruộng và xây dựng luôn cần lao động.
Thư lại hành chính
Là một thư lại (hay người viết thuê, sao chép) là nghề sinh lợi nhiều nhất. Thư lại có nhiều cơ hội thăng tiến, riêng những thư lại có tài năng và kỹ năng đặc biệt có thể lên đến chức tể tướng, chỉ đứng sau vua. Nếu nhà vua yếu đuối, y có thể tiếm ngôi.
Vai trò của tể tướng rất đa dạng và đầy quyền lực; toàn bộ triều đình đều dưới quyền kiểm soát của tể tướng. Tể tướng cũng trách nhiệm cho sự an toàn của nhà vua và của Ai Cập, có nghĩa là lực lượng cảnh sát đều dưới sự giám sát của ông. Ông chủ tọa các cuộc họp triều đình và giải quyết những thỉnh nguyện hằng ngày của dân chúng, thường thường liên quan đến tội phạm và kiện cáo. Trong những vấn đề tư pháp, tể tướng hành xử như một quan tòa, kết tội và tuyên án thay cho nhà vua.
Các thư lại có ít tham vọng hoặc quyền lực vẫn còn có việc làm vì chỉ 1 đến 5 phần trăm dân số Ai Cập biết chữ. Vào một lúc nào đó, hầu hết người dân đều cần đến sự giúp đỡ của một thư lại để viết thư hoặc làm đơn, tính toán sổ sách. Thư lại thực sự là những công chức và được trả lương hậu hĩnh.
Phần lớn thư lại hành nghề nơi xóm làng nơi họ sinh sống và phục vụ những yêu cầu mà dân làng yêu cầu. Họ tính phí theo bảng giá hoặc thương lượng tùy theo mức giàu có của thân chủ. Hợp đồng thỏa thuận theo miệng nên các sử gia không biết chi phí và giá cả là bao nhiêu.
Thầy tu: Người phụng sự thần linh
Làm thầy tu được mở ra đến tất cả mọi người __ biết chữ hay không __ mặc dù vị trí được phong tùy thuộc những kỹ năng thụ đắc. Hiển nhiên, những thư lại tại đền thờ đều có học và nhiều người làm việc tại Ngôi Nhà của Cuộc Sống, lưu trữ, sao chép, và đọc các bản văn được cất giữ tại đó.
Nhiều thầy tu làm việc bán thời gian, ba tháng làm một tháng tại đền rồi trở về làng. Những thầy tu này thường không độc thân. Thật ra việc đi tu theo truyền thống được truyền từ cha đến con, do đó thường được gia đình khuyến khích. Gia nhập giới tu sĩ do đó không phải là tiếng gọi của ơn trên, mà là sự thừa kế.
Bản chất của việc đi tu ở Ai Cập rất khác với những tôn giáo khác, như đi tu đạo Thiênchúa giáo hay Hồi giáo. Các thầy tu Ai Cập thực sự không có mối tiếp xúc gì với dân chúng trong vai trò của tu sĩ. Họ không giảng đạo, cho lời khuyên, hoặc cải đạo người ngoại đạo. Danh hiệu Hem-Netjer dành cho giới tu sĩ Ai Cập có nghĩa ‘người phụng sự thần linh’ là đúng với việc họ làm. Họ phụng sự thần linh, bảo đảm những lời cầu nguyện, lễ vật dâng cúng, và bùa chú được thi hành đúng đắn.
Một bậc thang phân biệt tồn tại trong giới tu sĩ với nhà tiên tri đầu tiên là quốc sư, tiếp theo là nhà tiên tri thứ hai, ba, tư, và năm. Lý tưởng thì nhà vua sẽ chỉ định quốc sư của mình, mặc dù không hiếm khi nhà vua cho phép nhà tiên tri chọn người thừa kế của ông ta.
Các thầy tu ở hàng thấp nhất là các thầy tế, có trách nhiệm tiến hành các nghi lễ thanh tẩy trong đền thờ, vác những con thuyền nhỏ chở các tượng thần linh diễu hành trong các ngày lễ trọng, giám sát những thợ sơn và thợ vẽ, và trông coi những công việc hằng ngày quanh đền.
Binh nghiệp: Mơ về chiến thắng
Trước thời Tân Vương quốc, quân đội không tồn tại, vì thế ước mơ trở thành người lính của các bé trai đều không thể hoàn thành. Trong thời kỳ này, nếu cần binh lính, các tổng trấn (thị trưởng) sẽ tập hợp những chàng trai cường tráng tại địa phương để sung quân cho chiến dịch.
Trong thời Tân Vương quốc, một quân đội thường trực được thành lập, do đó tồn tại những binh lính chuyên nghiệp. Nhiều văn bản tự thuật tìm thấy trong các lăng mộ mô tả những chiến tích quân sự kéo dài. Thật ra, một số binh lính lên đến những đỉnh cao quyền lực; các tướng lãnh Horemheb và Ramses I đều thành vua, cho thấy làm tể tướng không phải là con đường duy nhất đi đến ngai vàng.
Như với tất cả nghề nghiệp ở cổ Ai Cập, các binh lính bắt đầu được huấn luyện những kỹ năng quân sự cơ bản, thể lực ngay từ nhỏ __ ngay cả từ lúc 5 hay 6 tuổi. Các hình ảnh trong lăng mộ tại Beni Hasan từ Trung Vương quốc cho thấy cách thức các binh lính trừ bị được rèn luyện, và không nghi ngờ gì nữa chương trình huấn luyện không khác quân đội thường trực. Chương trình huấn luyện bao gồm:
- Đánh gậy
- Đánh vật
- Tập tạ bằng bao cát
- Cưỡi chiến mã
- Bắn cung
- Sử dụng giáo
Những kỹ năng của người lính quyết định binh chủng họ sẽ theo __ kỵ binh, binh sĩ dùng giáo, hoặc bộ binh.
Các thư lại cũng là một bộ phận thiết yếu của quân đội. Họ ghi chép những sự kiện trong chiến dịch và thường được mô tả trong các hình ảnh chinh chiến đứng lặng lẽ ở hậu quân và ghi chép diễn tiến của trận đánh. Họ cũng thống kê những chiến lợi phẩm thu được.
Một công việc đặc biệt đáng sợ của người thư ký quân sự là đếm xác chết của kẻ thù, được nhận diện bằng cánh tay phải bị đứt lìa hoặc dương vật (nếu chúng không bị cắt da qui đầu). Các binh lính bỏ lại hàng đống những bộ phận của thi thể trên chiến trường cho các thư ký tha hồ đếm.
Lao động tay chân
Điều kiện làm việc tương đối tốt đối với thợ thủ công ở Deir el Medina nếu họ có tay nghề cao và xây lăng mộ ở Thung Lũng các Vì Vua, nhưng có thể không tốt cho lắm đối với những thành viên không có đặc quyền như thế của xã hội. Những thợ thủ công này làm việc mỗi ngày tám tiếng và chỉ được nghỉ một ngày mỗi mười ngày. Các nhà nông và
những người thuộc giai cấp thấp hơn không được nghỉ ngày nào. Tuy nhiên, ngoài ngày nghỉ cuối tuần, các công nhân ở Deir el Medina có thể nghỉ nhiều ngày họ cần (phải có lý do). Những ghi chép còn sót lại tại địa điểm khai quật cho thấy có một bảng dài các lý do công nhân xin nghỉ. Cách đây 3500 năm với bây giờ không có gì thay đổi nhiều, vì một trong những lý do thông thường nhất là say xỉn. Những lý do khác bao gồm:
- Tẩn liệm thi thể người thân trong gia đình
- Chôn cất một thành viên quá cố trong gia đình
- Cúng tế cho người quá cố
- Lâm bệnh
- Bị bò cạp chích
- Cãi nhau với vợ
- Các thành viên nữ trong gia đình đang hành kinh
Các công nhân trong làng Deir el medina có một thầy thuốc riêng do nhà nước đài thọ tiền, có nhiệm vụ bảo đảm không có quá nhiều ngày nghỉ do bệnh tật hoặc thương tích. Có thể nhảy đến Chương 8 để xem phần mô tả cách chữa các bệnh mà các công nhân không may mắn trong làng này phải chịu.
Nghệ sỹ: Tạo ra cái đẹp
Người nào có tài năng mỹ thuật có thể trở thành nghệ sỹ, thợ mộc, hoặc thợ điêu khắc và được trả lương hậu hĩnh dù có được đào luyện chính thức hay không. Không giống nghệ sỹ trong thời nay, các nghệ sỹ Ai Cập không ký tên lên tác phẩm của mình, vì thế nhận diện tác phẩm của một họa sỹ hoặc nhà điêu khắc nào đó là việc không dễ dàng.
Hầu hết các nghệ sỹ làm việc như một đội và chịu trách nhiệm hoàn thành một lãnh vực nào đó trong lăng mộ hoặc đền thờ __ ngay cả cho dù họ có thể thành thạo trong mọi lãnh vực __ và phải làm việc trên lãnh vực đó thành một chuyên ngành của mình. Ví dụ:
- Thợ quét vôi chuẩn bị tường cho họa sỹ vẽ.
- Thợ đá chuẩn bị tường cho điêu khắc.
- Thợ vẽ đường viền cho bức tường.
- Thợ điêu khắc chạm đường viền.
- Nghệ sỹ sơn màu cả hình vẽ
- Thợ giám sát theo dõi công việc và chỉnh sửa trong suốt tiến trình thi công.
Làng Deir el Medina hầu như chỉ gồm nghệ sỹ. Mặc dù công việc hàng ngày của họ là xây dựng lăng mộ và đồ dùng cho nhà vua, họ cũng sử dụng tài năng mình để kiếm thêm thu nhập ngoài việc làm chính. Một số hợp đồng làm viêc còn để lại, cho thấy giá cả của dịch vụ, bao gồm:
thư lại Harshire chạm nỗi ba áo quan cho một ca sỹ đền Amun và được trả 329 deben (30 kilo) đồng.
Công nhân Bekenwernero đóng một số áo quan, giường, ghế, hộp và bàn, và nhận 91 deben (hơn 8 kilo) đồng.
Nông dân: Làm việc trên đồng
Với không tới 1 phần trăm dân số Ai Cập có học, nhiều người không được học hành nhận lấy các công việc không đòi hỏi phải qua giáo dục. Công việc quan trọng nhất trong số đó là làm ruộng.
Phần lớn dân số Ai Cập canh tác trên đồng, sản xuất ra lương thực. Đây là công việc nặng nhọc và thực sự là một trong những công việc quan trọng nhất, vì nếu nông dân không làm việc quần quật, phần còn lại của Ai Cập sẽ không có gì ăn. Nhà nước __ tức đền thờ và vua chúa __ sở hữu đa phần đất canh tác và nông dân chỉ là tá điền của họ. Nếu người nông dân không sản xuất đủ chỉ tiêu nào đó, họ sẽ bị đánh đập.
Người cổ Ai Cập trồng những loại ngủ cốc khác nhau và thường canh tác quay vòng mỗi năm. Những ngủ cốc sau đây tạo thành khẩu phần chính của người Ai Cập:
- Lúa mạch
- Lúa mì emmer (được trồng đầu tiên ở Cận Đông)
- Lúa mì Einkorn (loại lúa mì có lớp trấu dày)
- Lúa mì spenta (tương tự như lúa mì hiện nay)
Nhiều gia đình cũng trồng trọt thêm rau củ và chắc chắn là người nông dân cũng canh tác hoa màu trên diện rộng. Hoa màu (rau củ) tạo thành một tỷ lệ không nhỏ trong khẩu phần người Ai Cập, bao gồm:
- Củ hành
- Tỏi
- Đậu
- Đậu lăng
- Đậu Hà lan
- Củ cải
- Cải bắp
- Dưa leo
- Rau diếp
Nhiều gia đình còn trồng mè và thầu dầu (dùng làm dầu), cây lanh (dùng làm vải lanh), chà là (để làm hương bia hoặc ăn như loại trái cây).
Mặc dù tầm quan trọng của công việc đồng áng, người nông dân được trả lương thấp nhất trong xã hội cổ Ai Cập. Nói đúng ra họ không được trả công gì hết! Các nông dân phải nộp tô cho chủ đất, cộng với tiền thuê và thuế (cũng tính bằng nông sản). Họ chỉ được giữ lại hoặc bán những sản lượng vượt quá chỉ tiêu này. Sự sắp xếp này có hiệu quả đối với người chủ gia đình hoặc chủ nông, còn những người làm ruộng thuê được trả một đồng lương rẻ mạt và chắc chắn là không nuôi sống tốt gia đình họ hoặc không dư dã gì để mua sắm những hàng hóa khác.
Thợ giặt quần áo
Một trong những nghề nghiệp tệ hại nhất được mô tả trong Lời Châm Biếm về Nghề Nghiệp là nghề giặt giũ.
Vào thời cổ Ai Cập đã tồn tại những thợ giặt giũ chuyên nghiệp. Họ rảo từ làng này đến làng khác thu nhặt những quần áo dơ rồi mang đến bờ sông Nile để giặt giũ. Ghi chép từ Deir el Medina cho thấy những thợ giặt giũ được phân công những nhà đến thu quần áo dơ và họ không ngừng than thở về công việc nặng nhọc của mình. Không có gì mới.
Sau khi thu quần áo dơ, thợ để lại một ‘biên nhận’ dưới hình thức một ostracon (thẻ đá dùng như phiếu thu có hình quần áo mà họ mang đi. Việc giặt giũ tiến hành ở bờ sông Nile dùng natron (các-bô-nát nát-tri lỏng) và vôi như xà bông. Quần áo được vò trên đá để loại chất dơ đi, rồi được phơi nắng để tẩy trắng và khô.
Làm việc ở sông Nile là việc nguy hiểm vì cá sấu sinh sống gần bờ rất nhiều. Một người thợ giặt giũ mải mê công việc có thể không để ý đến những khúc gỗ trôi có mắt __ cho đến khi chúng táp y và lôi xuống nước. Còn nếu bọn cá sấu chưa đủ nguy hiểm, thì sông Nile và kênh đào của nó nhun nhúc những ký sinh trùng và sâu bọ chích cắn, có thể gây chết người.
Xem Xét Cuộc Sống các Bà
Mặc dù những trải nghiệm của phụ nữ Ai Cập không bằng với trải nghiệm của nam giới, phụ nữ Ai Cập hưởng được một mức độ cao đáng kinh ngạc về cơ hội, trách nhiệm, và uy quyền.
Đánh giá quyền phụ nữ
Các quý phu nhân trong cung cấm có rất ít tự do, được sử dụng như những con cờ chính trị, và bị khóa kín trong các hậu cung xa rời thế giới bên ngoài. (xem Chương 5 để biết thêm chi tiết).
Các phụ nữ bình dân thì may mắn hơn. Họ có nhiều tự do hơn hầu hết phụ nữ trong các xã hội đương thời khác. Chẳng hạn:
- Phụ nữ có thể đi ra ngoài mà không cần có người đi kèm. Mặc dù đây là điều mặc nhiên của hầu hết phụ nữ ngày nay, nhưng thứ tự do này vào thời cổ là điều rất hiếm.
- Mặc dù nhiều dinh cơ lớn có khu dành riêng cho các bà, họ không bị giới hạn trong không gian này. Thay vào đó, những căn phòng này chủ yếu dành tính riêng tư trong thời gian sinh nở, cho con bú, và hành kinh.
- Phụ nữ có cùng quyền như nam giới trong cùng giai cấp. Đặc biệt, phụ nữ có thể
- Sở hữu tài sản; bà cũng có thể quản lý đất đai của mình theo ý muốn không cần sự trợ giúp của đàn ông
- Thừa kế tài sản
- Hiến tặng tài sản; thật ra, điền sản được truyền từ mẹ đến con gái
- Cho mượn tài sản và kiếm lời
- Kiện thưa một người nào đó, kể cả người đó là các ông
- Làm chứng cho một văn bản pháp luật
- Là người đồng đối tác trong một khế ước pháp luật; chẳng hạn, trong thời Ptolemy, bà ta có quyền ký vào giấy hôn thú.
Hơn nữa, phụ nữ không mất quyền lợi luật định của mình sau khi đã kết hôn và vẫn được giữ riêng tài sản trong khi có chồng. Trong khi có chồng, bà ta có thể sở hữu, thừa kế, và bán bất kỳ tài sản nào của mình một cách tự do như đang đơn thân. Khi viết di chúc, bà ta có thể phân chia tài sản của mình theo ý mình muốn và không có nghĩa vụ pháp lý phải để lại thứ gì cho con cái.
Một bà góa Ai Cập được mặc nhiên hưởng được một phần ba tài sản của người chồng cũng như giữ lại tất cả tài sản hồi môn, cùng những tài sản bà kiếm được trong suốt thời gian hôn nhân. (Hai phần ba tài sản còn lại của chồng được chia cho các con và anh em của y.) Bằng cách tặng quà cho vợ trong khi còn sống, một ông chồng có thể tránh để tài sản mình bị chia tam chia tứ không theo ý mình sau khi chết, vì người vợ đã sở hữu mọi thứ được chồng cho tặng. Chắc tôi sẽ noi theo gương này quá!
Phụ nữ lao động
Đúng là các ông trong xã hội thời cổ Ai Cập có nhiều cơ hội khác nhau và một nghề nghiệp có sinh lợi. Còn các bà thì sao? Phần đông các bà, có chồng hay đơn thân, đều ở nhà phần lớn thời gian __ nuôi nấng con cái, nấu ăn, hoặc làm lụng.
Phụ nữ trong cộng đồng làm nông cũng phụ giúp công việc đồng áng trong mùa thu hoạch. Trong các hình minh họa ở lăng mộ cho thấy các bà đang sàn thóc, xay gạo thành bột, và làm bia.
Trong lúc nông nhàn __ dù họ thường không có nhiều __ các bà có thể kiếm ra tiền bằng cách bán ở chợ các sản phẩm nhà làm, như là bia, bánh mì, rau củ, vải lanh, giỏ, và bình đất.
Dệt vải
Nghề làm vải lanh vốn xuất phát từ nhà, đã lan rộng đến các hảng xưởng liên kết với đền thờ và ngay cả đến các hậu cung hoàng gia. Cách xử lý cây lanh và sản xuất vải lanh là hoạt động quan trọng trong kỹ nghệ nông thôn. Những xưởng thợ này phần lớn do các công nhân và quản lý nữ đảm trách, cung cấp vải lanh cho hoàng tộc và đền thờ, cũng như buôn bán.
Các bà trong cung có trách nhiệm huấn luyện giám sát các thợ dệt trong các xưởng đặt tại hậu cung. Chính một tay các cung nữ tạo ra những hàng thêu tinh xảo để giết thời giờ.
Các vị trí quản lý
Mặc dù các phụ nữ có chồng hoặc chưa chồng có thể làm việc mà không bị xã hội lên án, cũng tồn tại một số hạn chế gắt gao về nghề nghiệp mà họ có thể nắm giữ.
Hạn chế gắt gao nhất là thuộc các vị trí hành chính hoặc quan chức, nhất là công chức nhà nước, mặc dù trong các tư gia phụ nữ được phép giữ những vị trí như:
- Thủ quỹ
- Quản gia
- Bồi trưởng phòng ăn
- Thủ kho
- Người niêm phong (một vai trò rất quan trọng, có nhiệm vụ niêm phong các hộp, thư từ và phòng ốc
Trong nội cung, các vị trí mà các bà có thể nắm giữ đều có liên hệ với phái nữ bao gồm:
- Giám sát các ca nữ
- Giám sát đội múa hát, vui chơi
- Nhủ mẫu
- Giám sát khu dệt vải
- Giám sát phòng trang điểm
Dù ở vị trí quản lý nào, phụ nữ không bao giờ được phụ trách các công việc dành cho nam giới, mặc dù một số các bà nắm giữ những chức vụ quan yếu. Thật ra, triều đại thứ sáu có một tể tướng là phụ nữ.
Bà đỡ và vú nuôi
Hầu hết các phụ nữ đều được dạy dỗ những kỹ năng về chăm sóc trẻ con và thai sản, và một số bà chọn làm nghề sinh lợi liên quan đến những kỹ năng đó là bà đỡ.
Phần lớn các bà ở thời cổ Ai Cập đều sinh ít nhất năm người con, vì thế kỹ năng làm mụ được học qua những lần phụ giúp các bà đỡ trong làng trong thời gian mang thai và sinh nở. Nghề làm mụ cũng có thể học qua các khóa học chính quy. Chẳng hạn, ghi chép cho thấy một trường đào tạo nghề đỡ đẻ từng tồn tại tại Đền Neith ở Sais. Những bà mụ chính quy này thường làm việc cho các dinh thự hoặc thành phần ưu tú của xã hội, và được trả công đáng kể.
Sau khi các bà đỡ đã làm xong nhiệm vụ tốt đẹp, các gia đình ưu tú hoặc hoàng gia thường mướn các cô vú nuôi để săn sóc các bé sơ sinh. Vú nuôi được coi là một biểu tượng của địa vị xã hội; không có gia đình quyền quí nào mà không có vú nuôi. Các vú nuôi thường là những phụ nữ vừa mới sinh con và có thể cho bú con mình cùng với bé sơ sinh của chủ nhân.
Bé thường được nuôi vú trong ba năm. Việc cho con bú có tác dụng ngừa thai và là một cách bảo đảm nguồn thức ăn không lây nhiễm trong những năm tháng đầu yếu ớt của cuộc đời đứa bé.
Giải trí cho đám đông
Một số các phụ nữ, chắc chắn là chưa chồng, chọn nghiệp dĩ xướng ca. Người ta tin rằng đối với một phụ nữ ưu tú thì việc biểu diễn trước công chúng là không thích hợp. Mặc dù các phụ nữ ca hát, nhảy múa, hoặc chơi nhạc ở chốn riêng tư, nhưng tham gia trong bất kỳ hoạt động nào thuộc loại này nơi cộng cộng là điều cấm kỵ. Đúng ra, thời gian duy nhất mà một phụ nữ ưu tú được phép biểu diễn trước công chúng là khi bà ta thuộc thành phần tăng lữ, tham gia các hoạt động lễ lạc tôn giáo và các đám rước.
Tuy nhiên đối với thành phần thấp hơn, nghề biểu diễn là một nghề đáng quý, và kiếm ra tiền. Các đoàn hát gồm phụ nữ và đàn ông được thuê mướn để mua vui trong các bữa tiệc, cùng biểu diễn với các nhóm vũ công cùng phái tính, các ca sĩ, hoặc nhạc sĩ (xem Chương 7 để biết thêm chi tiết).
Nghề muôn thuở
Rất ít chứng cứ cho thấy nghề mãi dâm tồn tại vào thời cổ Ai Cập, nhưng là ‘nghề xưa nhất thế giới’, mãi dâm chắc chắn phổ biến.
Các học giả cho rằng một số người biểu diễn trong các buổi tiệc đã kiếm khá bộn tiền. Ghi chép cho thấy một nhóm vũ công có tên Hn-mwt có thêm dịch vụ tình dục để kiếm thêm tài chính. Tuy nhiên, phần lớn chứng cứ đến từ thời kỳ Hy-La, khi nghề mãi dâm được đánh thuế và sổ sách còn ghi lại.
Một số chi tiết nhỏ cũng được ghi chép về hình thức ‘tiếp thị’ của gái làng chơi. Chẳng hạn, nhiều gái mãi dâm khắc trên đế giày mình câu mời gọi ‘hãy theo em’ để chúng sẽ in lên bùn trên mỗi bước đi. Hãy so sánh việc này với việc cho số điện thoại của gái gọi thời buổi bây giờ.
Một gái mãi dâm, cũng như bà mụ, không hề thất nghiệp trong cổ Ai Cập. Một số học giả tin rằng hầu hết thanh niên trẻ tuổi, giàu có đều đến nhà thổ trước khi kết hôn để được đôi chút kinh nghiệm chăn gối. Nhưng các thanh niên nhà nghèo sống trong làng mạc, không thể giao du với gái làng chơi đẳng cấp cao, sẽ trải nghiệm tình dục với nhau và với động vật ngoài đồng.
Phục vụ các nữ thần
Nhiều phụ nữ thuộc tầng lớp trung, cao, và thuộc hoàng tộc chọn vào tăng đoàn, nghề nghiệp được trọng vọng nhất cho quý bà.
Đối với các tầng lớp cao, làm nữ tu là phương cách thuận tiện cho các bà không chồng __ mặc dù, như với các thầy tu, các phụ nữ muốn phục vụ thần linh không nhất thiết phải độc thân, và thực tế có nhiều người cũng có chồng.
Thêm nữa, như với các tăng lữ nam giới, các nữ tu thường truyền từ mẹ đến con gái, và có thể làm việc bán thời gian, một tháng trong mỗi ba tháng.
Phụ nữ hầu hết được tuyển làm trong tăng đoàn phục vụ một nữ thần như Isis, Neith, hoặc Hathor __ mặc dù họ có thể giữ những vai trò trong hầu hết các giáo phái khác phục vụ nam cũng như nữ thần. Các nữ tu chủ yếu là những nhạc sĩ, ca sĩ, hoặc vũ công trong những nghi lễ của đền thờ và đám rước.
Kiểm Tra sự Cân Bằng: Lương và Thù Lao thời Cổ Ai Cập
Như ngày nay, mỗi người cổ Ai Cập làm việc để nuôi sống gia đình và để tích lũy tài sản __ vì thế ai cũng hướng về ngày trả lương. Ghi chép từ Deir el Medina cho thấy nhân công được trả vào ngày thứ 28 mỗi tháng, nhưng không bằng tiền mặt như ngày nay.
Vì hệ thống tiền tệ chỉ được áp dụng trong thời Alexander Đại Đế vào năm 332 BC, lương bổng được trả bằng sản phẩm hoặc bằng dịch vụ. Số lượng ngủ cốc được ấn định tùy theo bậc công nhân khác nhau. Lương phụ thuộc vào thứ bậc của người đó, thứ bậc càng cao thì lương càng lớn. Bậc lương cao xấp xỉ 422.5 lít ngủ cốc mỗi tháng, đủ nuôi sống một gia đình gồm 10-15 người. Nếu một người làm công có gia đình nhỏ hơn, y sẽ có thừa ngủ cốc để đổi lấy hàng hóa khác.
Ngoài lương bổng, nhà nước còn cung cấp cho công nhân làm việc cho nhà vua tất cả nhu cầu thiết yếu của đời sống, như nhà ở, củi đốt, cá, rau củ, nước, và dầu. Tại Deir el Medina, các công nhân thường được nhà nước cho khẩu phần nhiều hơn trong những dịp lễ tôn giáo, hoặc như phần thưởng nếu nhà vua hài lòng với tiến độ xây dựng lăng mộ hoàng gia.
Khi mua bán, mọi hàng hóa có những giá trị tương đối mà mọi người đều biết. Những giá trị tương đối này dựa vào một hệ thống khá phức tạp về trọng lượng, dung tích, và đo lường:
- Khar: sử dụng như đơn vị đo ngủ cốc; 1 khar tương đương 76.8 lít.
- Deben: sử dụng như tri giá tổng quát cho nhiều hàng hóa; 1 deben tương đương 91 gam đồng.
- Kite: một nén bạc; 1 kite tương dương 0.6 deben đồng.
- Hin: sử dụng để đo chất lỏng; 1 hin tương đương 0.48 lít và trị giá 1 deben.
- Medket: sử dụng cho số lượng chất lỏng lớn; 1 medket bằng 50 hin.
Một số ghi chép về giá hàng hóa còn sót lại trong các ghi chép ở Deir el Medina, cho ta một cái nhìn bao quát về giá cả tương đối của các hàng hóa khác nhau:
- Ghế gỗ đơn giản: 11 deben
- Giường: 25 deben
- Bàn: 15 dbel
- Một bò đực: 95-120 deben
- Một bò cái: 4-50 deben
- Tớ gái trẻ: 410 deben
Hôn Nhân
Một lãnh vực đặc biệt quan trọng của đời sống Ai Cập là hôn nhân. Không lập gia đình được coi là bất bình thường vì mọi người đều mong có con cái nối dõi.
Người cổ Ai Cập lập gia đình sớm __ các cô gái đôi khi lấy chồng ngay từ lúc 10 tuổi. Ngay khi cô gái bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt của mình, bé đã là phụ nữ và đến tuổi lấy chồng. Các cậu trai cũng lấy vợ khi mới 10 tuổi, mặc dù họ có thể ở vậy cho đến khi đứng tuổi (30-40 tuổi), nhất là khi họ còn đang xậy dựng sự nghiệp.
Phơi bày sự thật về quan hệ loạn luân
Người Ai Cập được biết nhiều về sự kiện anh em lấy nhau, nhưng đây thực sự là một nhận thức sai lầm. Trong suốt thời kỳ pha-ra-ông, sự kiện này là điều cấm kỵ đối với dân thường. Chỉ có thần thánh và hoàng gia mới can dự vào sự kiện này __ như một phương tiện bảo đảm sự an toàn của dòng máu hoàng tộc.
Các bà hoàng chưa lập gia đình sẽ gặp nguy cơ bị hư hỏng bởi các ông nhiều tham vọng. Tuy nhiên, các bà hoàng không thể cưới người ngoài hoàng tộc mà không có sự đồng ý chính thức của nhà vua, điều này là hiếm hoi. Những hạn chế này có nghĩa là thường thì các bà hoàng kết hôn với anh, cha, và có khi ông nội mình. Đôi khi những dàn xếp này là những cuộc hôn nhân đúng nghĩa và sinh ra con cái.
Chứng cứ cho thấy hôn nhân giữa anh em ruột ở Ai Cập thời La mã có thể xảy ra sớm hơn bình thường và không đòi hỏi của hồi môn, giữ cho tài sản gia đình còn nguyên vẹn.
Nếu các cuộc hôn nhân này gãy đổ, cặp đó thường vẫn ở lại sống chung nhà với cha mẹ của họ. Chứng cứ của gia đình kỳ cục này đến từ thị trấn Arsinoe. Một người đàn ông lấy em gái mình làm vợ và có nhau hai người con trước khi họ ly dị. Họ vẫn sống chung nhà với hai con như cũ. Khi người đàn ông lấy vợ lần hai, cô vợ mới chuyển vào nhà này ở, và cuộc hôn nhân thứ hai sinh ra hai người con gái. Bạn có thể tưởng tượng không khí căng thẳng trong ngôi nhà này không?
Bỏ qua hình thức
Mặc dù người Ai Cập coi hôn nhân là quan trọng, không có nghi thức luật pháp nào được tiến hành, cũng không có đăng kí về hôn ước. Vì hôn nhân là một sự kiện xã hội do gia đình tổ chức, người cổ Ai Cập không cần hình thức hóa sự vụ.
Sau khi cặp đôi quyết định kết hôn, phần quan trọng nhất là rước dâu. Đưa cô vợ mới về nhà chồng có thể coi là nghi lễ, theo sau là một đám rước và tiệc tùng, nhưng không có ghi chép nào về điều này tồn tại.
Những ghi chép duy nhất còn lưu lại liên quan đến của hồi môn và tài sản và những gì xảy ra khi ly hôn. Tuy nhiên, những ghi chép này là bất thường và không nên coi là chuẩn mực. Hầu hết hôn nhân là môn đăng hộ đối, nên không cần những thỏa thuận trước hôn nhân.
Ly hôn
Ly hôn cũng thường không có tính hình thức như hôn nhân, không có giấy chứng nhận viết tay trừ khi cần những cứu xét về tài chính, như của hồi môn phải trả lại hoặc tài sản phải thanh toán. Ông hay bà có thể ly dị người phối ngẫu của mình chỉ bằng phát biểu ‘Tôi muốn ly dị’. Các bà sau đó thường sẽ trở về nhà cha mẹ mình.
Những vợ hay chồng ly dị có thể tái giá, mặc dù các bà trên 30 thường không lấy chồng lại. Có thể bởi vì các bà có thể tự túc về mặt tài chính hoặc đã qua tuổi sinh con và do đó không được coi là thích hợp cho hôn nhân.
Nhiều thông tin thiếu xót liên quan đến việc xảy ra cho các con trong trường hợp cha mẹ chúng ly hôn. Các con có thể đã ở lại với cha hoặc bỏ nhà đi với mẹ. Việc này không tìm được tài liệu ghi chép, nhưng có thể sau này xuất hiện.
Về tội ngoại tình
Một nguyên cớ thông thường để ly hôn là tội ngoại tình. Mức hình phạt đối với tội ngoại tình nghiêm khắc với phụ nữ hơn đàn ông. Chẳng hạn, trong thời kỳ Pha-ra-ông, ly hôn là hình phạt dành cho tội ngoại tình, nhưng một số truyện kể văn học cho thấy một phụ nữ có thể mất mạng vì phạm tội ngoại tình. Sau này, dưới thời Ai Cập bị người La mã đô hộ, một người đàn ông phạm gian với một phụ nữ có chồng có thể bị phạt đến 1,000 roi, trong khi phụ nữ bị cắt mũi.
Mặc dù tội ngoại tình không được tán thành, nhưng người đàn ông có quyền cưới thiếp, sống chung nhà với vợ và con của y. Có thê thiếp được coi là một biểu tượng địa vị xã hội của người giàu có. Vai trò của thê thiếp có phải thuần túy là tình dục hay không thì ta không biết, và sự khác nhau giữa vợ và thiếp không được xác định rõ ràng bằng văn bản cổ, trừ ra sự khác biệt về địa vị của họ.
Chăm Sóc Người Già
Tuổi thọ trung bình ở Ai Cập là 30-35, nhưng nhiều người sống rất lâu. Trong văn bản lưu lại, tuổi thọ cao nhất được ghi lại là 110, mặc dù không chắc là có nhiều người sống thọ đến vậy.
Các con cái được kỳ vọng phải chăm sóc cho cha mẹ khi về già. Đặc biệt con gái có bổn phận phụng dưỡng song thân, trong khi con trai thì không, có thể bởi vì các ông phải nuôi vợ và cha mẹ vợ.
Nếu vợ chồng nào không có con cái, họ thường nhận con nuôi để mong nhờ vả về già. Ít thông tin về vấn đề con nuôi, nhưng nó thường là một vấn đề không chính thức. Tuy nhiên, nếu cặp vợ chồng nhận con nuôi thuộc hạng giàu có, họ thường phải ký nhận một giấy chứng nhận trước nhân chứng.
Từ Deir el Medina, một số chứng cứ ít ỏi cho thấy nhà nước cung ứng một loại trợ cấp cho quả phụ của những công nhân còn cư ngụ trong làng. Nhưng phần trợ cấp thường không đủ nuôi sống họ, mà chỉ phụ vào sự chăm sóc của con cái.
Các ghi chép quân đội cho thấy nhà nước cung cấp mức trợ cấp tốt hơn cho các binh lính dưới hình thức đất đai hoặc vàng bạc và tước vị ngoài phần trợ cấp. Ngoài các công nhân và binh sĩ ở Deir el Medina, không ai khác nhận được trợ cấp của nhà nước. Các người già và quả phụ Ai Cập chỉ trông cậy vào lòng hảo tâm của bạn bè và gia đình.
Charlotte Booth
Trần Quang Nghĩa dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét